amidaphat



KINH QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ : 

Đời Lưu Tống, Ngài Cương-Lương Gia-Xá Dịch
Việt Dịch : Hòa Thượng Thích Thiền Tâm Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản PL 2526 - 1982

Mục Lục

Lời Tựa
Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ
I- Phần Tự
II - Phần Chánh Tông
Mười Sáu Phép Quán
1--Quán Sát Mặt Trời Sắp Lặn (Nhật Quán)
2. Quán Nước Ðóng Thành Băng (Thủy Quán)
3. Quán Cảnh Tướng Trên Dưới Ðất Lưu Ly (Bảo Ðịa Quán)
4. Quán Tưởng Cây Báu (Bảo Thọ Quán)
5 - Quán Ao Nước Bát Công Ðức (Bảo Trì Quán)
6. Quán Chung Về Ðất Cây, Ao, Lầu Báu (Tổng Tướng Quán)
7- Quán Tưởng Tòa Sen (Hoa Tòa Quán)
8- Quán Tưởng Phật và Bồ Tát (Tưởng Quán)
III - Phần Lưu Thông
---o0o---
Lời Tựa
Bản hoài ra đời của Đức Phật, là muốn cho tất cả chúng sanh thoát ly biển trầm
luân, bước lên bờ diệu giác, được hưởng sự an vui giải thoát như Ngài. Nhưng
bởi chúng sanh có nhiều bệnh, nên Phật Pháp cũng có nhiều phương, mà tổng
yếu không ngoài hai môn : Tự Lực và Tha Lực. Tự lực là môn phổ thông, Tha
lực là môn đặc biệt vì do nhờ sức Phật nhiếp trì tiếp dẫn, nên dù hoặc nghiệp
chưa tiêu cũng được bước ngay lên hàng bất thối. 
Tịnh Độ Giáo chính là pháp môn tha lực rất hợp thời cơ, và có lợi ích cho nhân
loại giữa thời mạt pháp này. Nhưng vì bản môn tuy dễ tu dễ chứng, song cũng
khó nói khó tin, nên người học Phật chưa thâm, hoặc thiếu tín căn về tịnh độ,
thường hiểu lầm cho là pháp thí dụ, hay nếu có giải thích thì cũng lạc vào tà
chấp của thiên không. Để đánh tan mối tệ sai lầm ấy và đem lại sự lợi ích cho
người tu, bút giả duyệt trong đại tạng, dung hội và trích yếu phần chú sớ của
các Ngài Thiên Thai, Thiện Đạo, Nguyên Chiếu, mà ghi lại lời giải thích bổn
kinh Quán Vô Lượng Thọ này. Xin nhấn rõ, trong đây toàn lời sớ giải của ba vị
tổ sư trên, bút giả chỉ là người sưu tập và ghi chép mà thôi. Việc làm này không
ngoài chủ ý muốn giữ lòng tin cho người học Phật và để biện minh rằng chư cổ
đức đều công nhận cõi Cực Lạc có thật, đã giải thích về tịnh độ với luận cú sự
lý viên dung, chớ không như một ít kẻ nông cạn, chỉ y theo thiên kiến sai lạc
của mình rồi lý thuyết hóa cõi Cực Lạc đâu, xin mượn lời ngài Nguyên Chiếu
mà tự trần thuật rằng :
An Dưỡng sạch vui, câu hội người lành bậc thánh. Ta Bà nhơ khổ, luân hồi sáu
nẻo ba đường! Thế thì chốn gai bùn thai ngục, nên gắng chí để xa lìa; nơi báu
đẹp kim trì, phải đem tâm mà nguyện đến. Giọng triều âm khen ngợi, đã thấy
khắp kinh văn. Những tịnh chúng sanh về, hãy còn ghi sử sách. Chỉ có trí người
hôn muội, hết nghi bán, lại suy lầm. Khiến nỗi lòng Phật từ bi, chút bản hoài
hằng khó tỏ! Thôi thì, ai người tín hướng nên quyết chí phụng hành, nào kẻ hữu
duyên hãy gắng tu chánh trợ. Hoặc xưng danh quán tưởng, trì chú, tụng kinh;
hoặc giữ giới tu trai, sám hối, bố thí. Nếu quả Tâm chuyên gắng, mới hay
duyên phước muôn ngàn. Và chư niệm niệm nối nhau sẽ thấy an vui không tận.
Riêng mình từ trước, đã mến tịnh tông. Đang lo muôn kiếp nghiệp phù binh,
bỗng găp môn lành thuyền tế độ. Nỗi thương nỗi cảm, trông vời khổ hải luống
than thầm. Thoạt tủi thoạt mừng, mới biết dư sanh còn chỗ tựa! Do đó tham
tầm kinh tạng, khảo hội sớ văn, lấy yếu bỏ phiền, ghi lời chú giải. Thuật mà
chẳng tác, dám đâu trái với cổ ngôn. Trọng ý quên lời, xin thể theo gương chỉ
nguyệt, tấc lòng trân kính dâng bạn đồng tu.
Liên Du

---o0o---

Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ

Trước khi giải kinh này, xin dùng năm nghĩa : Danh, Thể, Tông, Dụng, Giáo để
phân định : 
1- Thích Danh : Danh đề Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ, nếu nói
theo tiếng Việt chính là : Lời Giải Kinh Phật Nói Quán Vô Lượng Thọ.
Về Lời Giải, phần sớ văn trong đây y theo nguyên tác của ba Ngài: Thiên Thai,
Thiện Đạo, Nguyên Chiếu, bớt chổ phiền, lựa điểm yếu mà trích lục ra.
Kinh có nghĩa: Thường Pháp hay Khế Pháp. Thường Pháp là pháp chư Phật,
thánh nhơn trong ba đời thường nói. Khế pháp là pháp ấy hợp với chân lý, thời
tiết, nhân duyên, và căn tánh của chúng sanh.
Phật, nói cho đủ là Phật Đà, có nghĩa; giác ngộ. Sự giác ngộ này lại gồm 3
nghĩa: tự giác ngộ, giác ngộ cho người, và hạnh giác ngộ đã đầy đủ. Danh từ
Phật trong đây chỉ cho đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn. Kinh điển của thánh
giáo, đại khái do năm bậc là : Phật, các Thánh đệ tử, Thiên Tiên, Quỷ Thần, và
Hóa Nhơn nói ra. Trong đây gọi Phật nói là để giản biệt với bốn bậc kia, và
chính đức Phật đã vì bà Vi Đề Hy cùng quyến thuộc, nói ra kinh này ở cung
vua Tần Bà Sa La.
Quán nghĩa là soi. Người tuy theo lời Phật dạy, dùng trí huệ thanh tịnh cùng
sức tín nguyện của mình soi rõ chính báo, y báo cõi Cực Lạc, gọi lá (Quán).
Tịnh độ giáo có bốn pháp tu là: Quán Tướng, Quán tượng, Trì Danh và Thật
Tướng. Kinh này phần chánh yếu dạy về Quán tưởng môn. Sự Quán tưởng
trong đây có hai phần: Chánh báo và Y báo. Phần Chánh báo có hai : Chủ trang
nghiêm và Thánh chúng trang nghiêm. Chủ trang nghiêm là đức Phật A Mi Đà.
Thánh chúng trang nghiêm là hai vị Bồ Tát đó là Quán Thế Âm, Đại Thế Chí,
chư thượng thiện hiện đang ở Cực Lạc, cùng hải chúng khắp mười phương
sanh về. Phần y báo có ba: Địa hạ trang nghiêm, Địa thượng trang nghiêm, và
Hư Không trang nghiêm. Địa hạ trang nghiêm là là sự trang nghiêm ở dưới bảo
địa cõi Cực Lạc, như tất cả tràng báu cùng ánh sáng chói suốt lẫn nhau. Địa
thượng trang nghiêm là sự trang nghiêm nơi mặt đất, như bảo địa, bảo trì, bảo
lâu, bảo thọ cùng các thứ câu lơn, đài báu... Hư Không trang nghiêm là sự trang
nghiêm ở hư không, như hóa cầm, lâu các, lưới báu, linh ngọc, âm nhạc, gió,
ánh sáng... Ba thứ trang nghiêm trên đây đều là thắng tướng nhiệm mầu nơi cõi
Cực Lạc.
Vô Lượng Thọ là dịch âm của danh từ Phạn ngữ A Mi Đà ( AMiTa ) chỉ cho ý
nghĩa: sự sống không lường. Câu Nam Mô A Mi Đà Phật, nếu phiên âm từng
chữ theo Hán việt thì là : Quy mạng Vô Lượng Thọ Giác, tức chỉ cho ý nghĩa:
(xin nương về đấng giác ngộ có sự sống không lường). Trong đây nói Quán Vô
Lượng Thọ là mật ý muốn cử chánh báo để gồm y quả, thuật hóa chủ để kiêm
đồ chúng: cho nên tuy nội dung có mười sáu pháp quán mà chỉ nói Phật là đã
đầy đủ. Vì thế nên gọi: Phật nói Quán Vô Lượng Thọ. 
2- Biện Thể : Thể là chủ chất. Thích Luận nói: (Trừ thật tướng của các pháp,
ngoài ra tất cả đều là ma sự ). Các kinh Đại thừa đều lấy thật tướng làm tâm ấn,
dùng vô lượng công đức để trang nghiêm, vô lượng hạnh nguyện làm chỗ qui
thú. Vậy kinh này lấy thật tướng làm thể.
3- Minh Tông : Tông có nghĩa là cội gốc, là nguồn mối: như ngôi nhà có kèo
cột, chiếc áo có cái bâu. Do tông chỉ không đồng, nên giáo pháp có lớn nhỏ.
Như các kinh tiểu thừa, tông chỉ phần nhiều đi về chổ siêu thoát, ba cõi, tu
chứng nhơn không. Các kinh đại thừa, như kinh Duy Ma thì lấy Bất tư nghì giải
thoát làm tông; Kinh Đại Bát Nhã làm không huệ làm tông. Kinh này lấy Quán
Phật tam muội hay niệm Phật tam muội làm tông.
4- Thuyết Dụng: Dụng tức là lực dụng hay công đức của kinh. Các kinh hay
khiến cho chúng sanh được sự trừ ác sanh thiện, nên gọi là lực dụng, là công
đức. Nếu phân tích ra, thì công năng trừ ác gọi là ( lực ). Sanh thiện gọi là (
Dụng ); trừ ác gọi là ( công ), sanh thiện gọi là ( đức ). Kinh này hay khiến cho
chúng hữu tình ( Trừ được tội ngũ nghịch, vãng sanh về tịnh độ ), nên nay lấy
tiêu điểm ấy làm lực dụng của kinh.
5- Nhiếp Giáo : Kinh này thuộc về giáo pháp Đại thừa tên là Đại phương đẳng
hay Đại phương quảng. Sao gọi là Đại phương quảng? Thám Huyền nghĩa ký
bảo: ( nói ra pháp rất rộng lớn sâu xa, nên gọi là phương quảng ) ( Tuyên thuyết
quảng đại thậm thâm pháp cố, danh vi phương quảng ). Về Tịnh độ giáo, vì
muốn thích hợp với các căn cơ, nên đức Thế Tôn nói ra ba bổn kinh rộng lược
không đồng. Hai bổn kia là kinh Phật Thuyết A Mi Đà và kinh Vô Lượng Thọ.
Riêng về bổn này, vào thời Nam Bắc triều, đời Tống Văn Đế, niên hiệu Nguyên
Gia, ngài Cương Lương Gia Xá, đến Dương Châu dịch từ Phạn ngữ ra Hán
văn. Và kinh này trong tám giáo nhiếp về đốn giáo, trong hai tạng thuộc về Bồ
Tát tạng.

---o0o---

I- Phần Tự

Như thế tôi nghe, một thời Phật ở tại non Kỳ Xà Quật thuộc thành Vương Xá.
Cùng với một ngàn hai trăm năm mươi bậc Đại tỳ khưu. Nơi chúng hội đây, lại
có ba vạn hai ngàn vị Bồ tát, trong ấy Ngài Văn Thù Sư Lợi pháp vương là bậc
thượng thủ.
Đây là đoạn duyên khởi, trước tiên nêu ra 6 điểm để thành tựu cho toàn kinh.
Sáu điểm ấy cũng gọi là Lục chủng thành tựu : 
1- "Như thế" bao hàm ý nghĩa chứng tín. Thật tướng của các pháp xưa nay
không dời đổi gọi là "Như", đúng với lý chơn thật mà nói ra gọi là "Thế". Lại
Như Thế có nghĩa : Những lời sau đây hợp với lý như thật, và chính thuật giả là
ngài A Nan đã thân nghe Phật nói đúng như vậy. Những lời ấy quyết định đáng
tin. Đây gọi là điểm Tín thành tựu.
2- "Tôi nghe" là Ngài A Nan tự trần thuật chính mình đã nghe những lời sau
đây từ nơi kim khẩu của Phật nói ra. Ngài là bậc đa văn đệ nhất, thọ trì lời của
Phật nói như nước rót vào bình không sai một giọt, lại là thị gỉa thường hầu cận
đức Thế Tôn. Ngài có bổn phận thừa truyền giáo pháp của Như Lai. Nghe thế
nào thì thuật lại thế ấy, chớ không phải tự mình ức thuyết. Theo chân lý, tất cả
pháp đều không, cái ta cũng là hư huyễn; nhưng trong đây nói "Tôi", vì không
có "Tôi" thì không ai "nghe",và nếu không người nghe ai sẽ truyền giáo pháp
của Phật ? Cho nên hai chữ "Tôi Nghe" chẳng qua là lời tùy thuận theo thế tục
để truyền dương Phật Pháp vậy thôi. Điểm thứ hai này gọi là Văn thành tựu.
3- "Một thời", chỉ cho thời gian phát khởi ra sự giáo hóa. Đức Như Lai nói kinh
gồm rất nhiều thời gian, không tiện và khó nổi chỉ định ra, bởi thời tiết của mỗi
địa phương có khi sai khác, nên gọi chung bằng lối giản tiện là "Một Thời". Lại
"Thời" còn ám chỉ cho thời tiết nhân duyên, nếu chúng sanh chưa đến thời tiết
nhân duyên được nghe pháp ấy, mà Phật nói sớm ra thì họ khó được lợi ích. Và
nếu thuyết pháp sớm hay muộn không hợp thời tiết nhân duyên, tất phạm nhằm
lỗi thời đảo. Điểm thứ ba đây gọi là Thời thành tựu.
4- "Phật" là chỉ cho Đức Thích Ca Mâu Ni. Danh từ Phật ngoài ba nghĩa đã giải
ở trên, còn có những nghĩa : Phá phiền não, Đại danh thinh, ( Bà Dà Bà : danh
tiếng lớn ). Phật cùng các hàng Bồ Tát, Thinh Văn đều là những bậc giác ngộ,
song sự giác ngộ của Phật viên mãn cứu cánh hơn cả, nên cũng gọi là Đại Giác.
Sở dĩ nêu ra chữ "Phật", vì trước khi nói kinh phải chỉ rõ ai là thuyết gỉa, là vị
hóa chủ của Đại chúng. Đây là điểm chủ thành tựu.
5- - Tại non Kỳ Xà Quật, (Kỳ Xà Quật : GrdhraKùta ). Trung Hoa dịch là Linh
Thứu, "Thứu" là chim kên kên. Có thuyết cho rằng đầu núi nầy giống hình kên
kên; thuyết khác lại bảo nơi phía Nam của núi thường có loài chim kên kên tụ
hợp về tại rừng Thi Đà, vì thế mới gọi là Thứu Phong hay Thứu Lãnh. Còn về
chữ "Linh" thì có thuyết nói nơi ngọn núi này thường có bậc tiên thánh y trụ,
hoặc nhiều linh thoại ( điềm lành ) hiện ra, thuyết khác lại bảo là đại ý ám chỉ
cho loài chim kên kên có tánh linh. Các thuyết trên đều có thể đều đúng cả,
nhưng dù đúng hay không cũng chẳng mấy quan hệ, duy có điểm xác thật là
khí hậu ở non Thứu quanh năm luôn luôn mát mẻ, nên đức Phật và các đệ tử
thường hay tịnh dưỡng tại nơi đây. 
6- "Thuộc thành Vương Xá" Vương Xá tiếng Phạn gọi là : La-Duyệt-Kỳ-Dà-La
( Rajagrha ), ý nghĩa chỉ cho chỗ cư xá của hàng vua chúa. Theo truyền thuyết,
thì thuở xưa vua Quảng Xa được thần linh mách bảo rằng: muốn tìm nơi địa
cảnh tốt thì nên du ngoạn ngoài thành, tất sẽ được gặp. Một hôm, nhân đi săn
bắn vua đuổi theo con nai cùng chạy đến vùng núi Kỳ Xà Quật, thấy nơi đây
phong quang thanh tú, có rừng cây cao tốt, hoa đẹp suối trong, mới di cư tới
bản địa và kiến lập thành quách cung xá. Con cháu của vua kế thừa ý chí tổ
phụ, đời đời vẫn định cư tại đây. Lại một truyền thuyết khác bảo: Thuở xưa
nhân dân khi mới theo vua di cư vào thành ấy, nhà cửa người nào vừa cất xong
cũng đều bỗng tự nhiên phát hỏa cháy tiêu tan cả, duy có cung thất của vua là
không bị cháy. Dân chúng đem việc ấy tâu lên, vua bảo : "Từ đây về sau, nếu
có ai cất nhà đều phải nói lớn lên : Tôi cất nhà này cho vua!" Mọi người y lời,
quả nhiên nhà cửa không bị cháy. Do hai sự tích trên, thành này được mệnh
danh là Vương Xá thì hóa độ hàng tại tục, lúc lên đỉnh Thứu sơn lại thuyết
pháp cho chúng xuất gia. Hai địa điểm trên đều có liên quan đến phần thuyết
giáo của bản kinh. Và đây là thuộc về điểm Xứ thành tựu .
6- "Cùng với một ngàn hai trăm năm mươi bậc Đại tỳ khưu". Trong 1250 vị
đây gồm có 1000 đệ tử của ba anh em ngài Ca Diếp và 250 đệ tử của hai ngài
Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên. Những người nầy là ban sơ là ngoại đạo thờ Lửa,
khổ nhọc tu hành rất lâu mà không đắc qủa, đến khi gặp đức Như Lai mới được
giải thoát. Do đó tất cả đều cảm thâm ân của Phật, nên thường theo làm kẻ tùy
thị. "Tỳ Khưu" ( Bhiksu ), có nghĩa : Khất Sĩ, Bố Ma, Phá Ác, mà nghĩa khất sĩ
đứng về phần chánh. Khất sĩ là kẻ trên xin
giáo pháp của Phật để dưỡng huệ thân, dưới xin thức ăn của đàn việt để dưỡng
nhục thân. Trước danh từ Tỳ Khưu có thêm chử "Đại" là để tỏ ý khen ngợi đức
hạnh của các vị ấy siêu việc lớn lao. nếu theo nguyên văn chữ Phạn thì phải gọi
Ma Ha Tỳ Khưu; "Ma Ha" Trung Hoa dịch gồm ba nghĩa là: Đại, Đa, Thắng,
nay duy lấy nghĩa "Đại" để hàm nhiếp hai nghĩa kia.
"Nơi chúng hội đây, lại có ba vạn hai ngàn vị Bồ tát, trong ấy Ngài Văn Thù Sư
Lợi pháp vương là bậc thượng thủ." Bồ Tát gọi cho đủ là Bồ đề tát đõa (
Bodhisattva ), Trung Hoa dịch: Giác hữu tình hay Hữu tình giác. Hai danh từ
này có nghĩa: tuy giác ngộ mà còn có tình thức, tuy còn có tình thức song đã
giác ngộ. Văn Thù Sư Lợi ( Manjusri ), Trung Hoa dịch là Diệu Đức hay Diệu
Kiết Tường. Pháp vương tử, nói đơn giản là nghĩa: con của đấng Pháp Vương.
Nếu giải thích rộng ra, thì vị nào từ nơi chánh phápmà hóa sanh, sẽ nối ngôi
Đại giác để làm thạnh cho dòng giống Phật, Mới được gọi là Pháp vương tử.
Vậy Pháp vương tử là bậc Bổ xứ Bồ tát sẽ nối ngôi Phật, như Thái tử là vị sẽ
nối ngôi vua. Nếu luận về chí nguyện, phải để Bồ tát đứng trước, nay chỉ lấy
phần oai nghinên trước tiên trần thuật hàng Thanh văn. Thượng thủ là người 
cầm đầu, vị lãnh đạo của một số chúng. Hai đoạn kinh trên đã lược kể số chúng
trong pháp hội. Điểm sau cùng nầy gọi là Chúng thành tựu.
Tóm lại sáu đoạn hay sáu điểm mệnh danh lục chủng thành tựu hoặc lục chủng
chứng tín trên, đã dự phần bố trí hệ thống của toàn kinh và biện chứng để dẫn
khởi lòng tin tưởng cho người học Phật với một ý thú nhiệm mầu.
Bấy giờ trong Vương Xá đại thành có vị Thái tử tên là A Xà Thế, nghe theo lời
xúi giục của ông bạn ác Điều Đạt, bắt vua cha là Tần Bà Sa La giam trong ngục
kín dày đến bảy lớp cửa, Thái tử lại ra lịnh cấm các quan, không cho một ai
được đến thăm.
Đây mới là điểm chánh thức đi vào duyên khởi của bản kinh. Điểm nầy đại
khái trần thuật: do Thái tử A Xà Thế làm điều bạo nghịch, Quốc Thái phu nhơn
Vi Đề Hymới bạch với Phật cầu xin được thoát ly miền ác trược về cõi an lành.
Nói Vương Xá đại thành, vì thành nầy rất rộng lớn, gồm có đến chín ức cư dân.
A Xà Thế ( Ajatasatru ), Trung Hoa dịch là Vị sanh oán hay Chiết Chỉ. Vị sanh
oán là mối oán hận lúc chưa sanh ra, Chiết Chỉ là ngón tay gãy. Sự tích nầy hơi
dài, xin thuật qua đại lược: Nguyên trước kia vua Tần Bà Sa La kém bề tử tức,
đi l thần khắp các nơi song cũng không sanh được con. Một hôm có vị tướng sư
đến tâu rằng: - núi Tỳ phú la có bậc tiên nhơn đạo đức, sau ba năm sẽ xả mạng
và thác sanh làm con của vua. Tần Bà Sa La vương vì lớn tuổi muốn có con
gấp, sau đôi ba phen cầu thỉnh tiên nhơn xả thân mà không được, mới dăn sứ
giết ông đi ssể cho mìng có con sớm. Trước khi chết tiên nhơn có phát
nguyện:"Ngày nay vua dùng tâm và miệng sai ngưới giết tôi, nếu tôi sanh làm
con vua, cũng sẽ dùng tâm và miệng sai mgười giết vua>. Hôm tiên nhơn chết,
đêm đó hoàng hậu cảm giác mình có thai. Lúc bà sắp tới ngày sanh, vua cho
người mời danh sư trong nước xem tướng. Các tướng sư đều bảo: "Đứa bé sẽ
sanh là con trai, nhưng vì có mối oán hờn đối với bệ hạ, sợ e ngày sau tất làm
tổn thương đến thánh thể.> Vua nghe nói sợ hãi dặn cung nữ: khi hoàng hậu
lâm bồn, đừng đở đứa bé, để nó rớt xuống đất cho chết. Vì oan trái chưa trả
xong, đứa bé tuy ở chổ cao rớt xuống nhưng không chết, chỉ bị gẫy ngón tay út
mà thôi. Do đó khi lớn lên Thái tử A Xà Thế có tật nơi ngón tay út. Danh từ Vị
Sanh Oán hay Chiết Chỉ phát xuất bởi gốc tích trên.
Điều Đạt tức là Đề Bà Đạt Đa ( Devadatta - Thiên Nhiệt ) Con Học Phạn
Vương, em nhà chú của Phật, anh ruột ngài A Nan ( theo kinh Phật thuyết Thập
Nhị Du thì Điều Đạt và A Nan đều là con của Cam Lộ Tịnh Vương ) Điều Đạt
lúc còn tại tục tánh người vốn hung mãnh, đến khi xuất gia nết cũ vẫn không
chừa. Ông tuy học thông nội điển và các kinh sách của ngoại giáo, song tâm
không hợp với Đạo, thấy Phật được nhiều người cúng dường liền sanh lòng tật
đố. Một hôm Điều Đạt đến chổ Phật cầu xin học pháp thần thông. Đức Thế Tôn 
không nhận lời, duy bảo: "Ông nên quán lý vô thường, tất sẽ đắc đạo và tự có
thần thông". Không được mãn nguyện, ông lại đến cầu hai tôn giả Xá Lợi Phất,
Mục Kiền liên về việc ấy. Hai Ngài cũng bảo: "Đại đức nên quán về Tứ Niệm
Xứ, không cần học thần thông làm chi". Sau cùng ông đến gạn hỏi ngài A Nan.
Tôn giả A Nan tuy chứng sơ quả song chưa đắc tha tâm thông, biết được thâm
ý của anh mình, liền đem Điều Đạt đến chổ vắng lặng trước tiên dạy về phép
bay. Người muốn học bay phải ngồi kiết dà giữ tâm cho yên tỉnh, tưởng thân
lay động, kế tưởng thân nhắc lên khỏi mặt đất một phân, một tấc, một thước,
một trượng, khỏi mái nhà rồi lần lần bay lên cao. Xong, lại mhiếp tâm tưởng
thân lần lần hạ thấp xuống bản tòa. Sau đó dùng thân cử tâm, kế lại thân tâm
đều cử, mổi phiên từ thấp lên cao, từ cao xuống thấp y như trước. Cứ theo ba
nguyên tắc ấy mà xoay vần tập luyện cho thuần thục, tự sẽ có kết qủa. Ngài A
Nan lại tiếp tục dạy cho Điều Đạt phương pháp tưởng bay đi, tưởng thân tâm
vào trong tất cả sắc chất. Kế đó tưởng các sắc chất như non, sông, đất liền vào
trong thân mình, như hư không vô ngại. Lại tưởng tự thân lớn ra đầy khắp hư
không, ngồi nằm tự tại, đưa tay lay động mặt trời mặt trăng. Hoặc tưởng thân
rút nhỏ lại, chui vào hạt bụi. Điểm cần yếu trong phép tưởng là nhận định các
sắc chất đều như huyn, tất cả vô ngại. Khi ngài A Nan tuần tự y theo phương
pháp chỉ dạy xong, Điều Đạt nhất nhất đều ghi nhớ, rồi tìm chổ thật thanh vắng
tu luyện, không bao lâu ông được phép thần thông.
Sau khi đắc thần thông, Điều Đạt liền đi đến cung điện của Thái tử A Xà Thế
hiện ra nhiều cách biến hóa khiến cho đông cung sanh lòng tin tưởng,kính tọng,
cúng dường rất hậu. Đã thâu phục được Thái tử, một hôm ông lại đi đến chổ
Phật thưa rằng: "Bạch Thế Tôn! nay ngài tuổi tác đã cao, xin đem đồ chúng và
pháp tạng phú chúc lại cho tôi, để an dưỡng lúc suy già". Đại chúng nghe ông
nói lời ấy đều kinh ngạc, nhìn ngó lẫn nhau. Đức Phật mỉm cười bảo: "Như Xá
Lợi Phất và Mục Kiền Liên có thể gọi là bậc đại pháp tướng mà ta không còn
đem chánh pháp phú chúc, huống chi ông là kẻ ngu si ư ?". Bị mất mặt trước
đại chúng, Điều Đạt đem lòng oán hận liền đến cung Thái tử A Xà Thế. Đông
cung thấy ông đi đến, cung kính đón tiếp và hỏi rằng: "Chẳng hay tôn giả
quang lâm có việc chi, mà xem nhan sắc không được vui?". Ông đáp: "Tôi
cùng Thái tử tuy quen thân chưa được bao lâu, mà đối xử như tình chí thiết.
Hôm nay tôi có vẽ lo lắng, chẳng qua cũng vì ngài đó thôi!" Thái tử vội hỏi
duyên cớ. Điều Đạt bảo: "Tôi xem ý đức vua đối với thái tử không được ân
hậu. Sở dĩ ngón tay út của Thái tử bị tật là do khi ngài mới sanh ra, vua đã âm
mưu cố ý để cho tôn thể rớt từ trên cao xuống đất. Nếu ngài không có phước
đức thì lúc ấy mạng căn đã tuyệt, đâu còn sống đến ngày nay? Hiện giờ đức vua
đã già, Sa môn Cù Đàm cũng đã lớn tuổi không còn đương nổi trách nhiệm
nữa. Vậy chúng ta nên tìm cách phế trừ hai người đó, để Thái tử sẽ làm tân
vương, phần tôi thì làm tân Phật, chẳng hay tôn ý thế nào? Do oan nghiệp đời 
trước, Thái tử A Xà Thế nghe xong liền nổi giận y theo lời. Từ đó, Đề Bà Đạt
Đa lo vận động kéo một nhóm tăng lữ về phe mình, tự chế ra giới luật mới, và
âm mưu hại Phật nhiều phen, song kết cuộc đều thất bại, bị sanh đọa địa ngục.
Phần A Xà Thế thì làm điều nghịch đạo bắt giam vua cha cho đến chết.
Tần Bà Sa La ( Bimbisara ), Trung Hoa dịch là Mô Thật hay Kiên Ảnh. Hai
danh từ nầy chỉ cho nghĩa: Người có hình vóc mạnh khỏe chắc chắn.
Trên đây đã giải thích về nguyên ủy của đoạn chánh văn: "nghe theo lời xúi
giục của ông bạn ác Điều Đạt, bắt vua cha là Tần Bà Sa La giam trong ngục kín
dày đến bảy lớp cửa".
Quốc Thái phu nhân là Vi Đề Hy, vì mến tưởng vua, bà lo nghĩ phương chước
cứu giúp. Bà tắm gội sạnh sẽ, lấy bột nhồi với sữa và mật thoa dính nơi thân, đổ
đầy nước trái nho vào các hạt chuổi Anh Lạc, rồi lén đem các thức ấy dâng cho
vua. Tần Bà Sa La vương thọ dụng thức ăn uống xong, xin nước xúc miệng rửa
mặt, đoạn chắp tay hướng về núi Kỳ Xà Quật kính l Đúc Thế Tôn và thưa
rằng:"Ngài Đại Mục Kiền Liên là bạn thân của tôi, xin khởi lòng từ bi truyền
cho tôi giới Bát Quan Trai".
Quốc Thái phu nhân là người có địa vị tối cao trong nước. Vi Đề Hy ( Vaidehi
), Trung Hoa dịch là Tư Duy hoặc là Thắng Diệu Thân, chỉ cho người có sắc
thân xinh đẹp và hay lo lắng quán xuyến mọi việc. Bà Vi Đề Hy là chánh hậu
của vua Tần Bà Sa La, mẹ của Thái tử A Xà Thế. Thái tử cấm quần thần không
cho vào thăm vua, mà chẳng ngăn cản mẹ, vì bà là người tối thân, lại thuộc về
hàng phụ nữ, chắc không đến nổi có mưu biến gì, nên chẳng mấy lưu tâm. Bà
Vi Đề Hy muốn dâng thức ăn cho vua mà phải làm như thế, vì sợ Thái tử để ý
rồi phát giác ra được.
Đại Mục Kiền Liên ( Moggalli ), Trung Hoa dịch là Thái Thúc Thị; vì ngài
nguyên dòng dõi của một vị tu tiên trong núi, sống bằng đậu và bắp. Ngài là vị
đệ tử thường hầu bên hữu của Phật. Trong tiền kiếp, Mục Kiền Liên cạo tóc và
may áo ca sa cho một vị Bích Chi Phật, nguyện đắc thần thông, nên khi Phật ra
đời ngài được khen là bậc A La hán thần thông đệ nhất. Bát Quan Trai, "Bát" là
tám giới: Không sát sanh; không trộm cắp; không dâm dục; không nói vọng;
không uống rượu; không trang điểm; không tự ca múatrổi âm nhạc và cố ý xem
nghe; không ngồi nằm giường cao rộng sang đẹp. "Quan" có nghĩa là ngăn
đóng, vì tám giới ấy hay ngăn đóng các cửa ác nghiệp nên gọi là "Bát Quan".
"Trai" có nghĩa trung, là ăn giữa ngày, không được quá ngọ. Tám điều trên duy
có nghĩa "giới" không gồm nghĩa "trai", điều sau kiêm cả hai nghĩa "giới,Trai",
vì thế nên không gọi cửu giới mà gọi "Bát Quan Trai". Những giới này công
dụng rất vi tế, chỉ có Phật mới thân chứng. Tại sao thế? Vì chư Phật mới dứt 
phiền não và tập khí, ngoài ra từ ngôi đại giác trở xuống, phiền hoặc tuy đoạn
song tập khí vẫn còn. Vì muốn cho hàng tại gia gieo hạt giống giải thoát, nên
Phật mới chế ra giới bát quan trai để họ thọ trì trong một ngày dêm giữ đúng
giới này, công đức vượt hơn hàng nhơn thiên rất nhiều.
Khi ấy ngài Mục Kiền Liên biết được, liền bay đến chổ Tần Bà Sa La Vương lẹ
như chim ó, chim cắt; mỗi ngày truyền giới Bát Quan Trai cho vua. Đức Thế
Tôn cũng sai tôn giả Phú Lâu Na vì vua thuyết pháp. Như thế trải qua hai mươi
mốt ngày, nhờ được ăn uống và nghe pháp, nên dung sắc vua hòa nhã tươi vui.
Ngài Mục Kiền Liên đã được lục thông, nghe thấy và biết sự cầu thỉnh của vua,
nên dùng sức thần túc trong khoảnh khắc hiện đến chổ cấm ngục. Tướng thần
túc này rất mầu nhiệm, vì e người đời không biết nên trong kinh mới thí dụ là lẹ
như chim ó, chim cắt. Thật ra sức thần thông của tôn giả Mục Kiền Liên có thể
trong một niệm đi quanh bốn đại bộ châutrăm ngàn vòng đâu phải tầm thường
như chim ó, chim cắt ư? Giới bát quan trai chỉ hạn cuộc trong một ngày đêm,
nên mãn kỳ phải truyền lại. Mỗi ngày vua đều thọ giới, vì không biết Thái tử A
Xà thế sẽ sai người đến giết lúc nào, nên chí thành tịnh niệm giữ giới từng
ngày, giờ, phút, cho tăng phần công đức.
Phú Lâu Na ( Pùrna ), Trung Hoa dịch Mãn Nguyện Tử hay Mã Từ Tử, vị đệ tử
thuyết pháp bậc nhất của đức Phật. Đức Thế Tôn vì thương xót Tần Bà Sa La
Vương, nên sai tôn giả Phú Lâu Na đến thuyết pháp làm cho vua hiểu rõ nhân
qủa, đạo lý, dứt mối sầu khổ ưu phiền. Qua hai mươi mốt ngày mà vua vẫn vui
vẽ bình yên vì được hoàng hậu săn sóc về phần thể chất và hai tôn giả an ủi về
phần tinh thần.
Lúc đó A Xà Thế đến hỏi người giữ cửa rằng : Phụ vương ta hôm nay còn sống
chăng? Viên thủ ngục đáp:"Tâu đại vương! do Quốc Thái phu nhân thoa bột
với mật vào thân và đựng nước trái nho trong hạt chuỗi đem cung phụng; lại có
hai Sa môn là Mục Kiền Liên, Phú Lâu Na bay đến truyền giới thuyết pháp
không thể ngăn cấm, nên hiện tại đức vua vẫn bình yên>. A Xà Thế nghe xong,
nổi giận bảo: "Mẹ ta là giặc vì đã làm bạn với kẻ giặc. Bọn Sa môn kia là hạn
người xấu, dùng chú thuật làm cho tên ác vương ấy nhiều ngày không chết!>
Nói đoạn, rút gươm muốn đến giết mẹ.
Đang khi ấy, có hai vị đại thần thông minh tài trí là Nguyệt Quang, Kỳ Bà, thấy
thế vội qùy xuống làm l và can gián rằng: "tâu đại vương! chúng tôi nghe trong
kinh Tỳ Đà La nói từ thuở kiếp sơ đến nay những ác vương tham ngôi báu mà
giết hại cha, có một vạn tám ngàn người; song chưa từng nghe có ông vua nào
giết mẹ. Nay nếu đại vương làm việc ác nghịch trái đạo này, tức là để vết nhơ
cho dòng giống Sát Đế Lỵ, nào khác gì hạng Chiên Đà La. Bọn thần không nỡ 
ở lại trông nhìn cảnh tượng ấy, vậy xin từ nay bái biệt!> Nói xong đứng lên đưa
tay đè chuôi gươm rồi thối lui quay đi.
Vi Đề Hy phu nhơn dù có hành vi kín đáo, song lâu ngày cũng khó che dấu
được. Viên thủ ngục vì muốn chạy tội cho mình, phải đem sự thật mà thưa ra.
A Xà Thế đã hờn vì mẹ lén đem thức ăn cho vua cha, lại nói nghe hai vị tôn giả
dùmg phép thần thông tự do tới lui trong ngục thất, nên càng thêm giận, mới có
lời vô ý thức: "các thầy Sa môn là hạng chuyên dùng chú thuật để huyn hoặc
người, làm cho tên ác vương ấy nhiều ngày không chết>.
"Nguyệt Quang" là Hoa ngôn, chỉ cho người trí huệ sáng suốt như ánh trăng.
"Kỳ Bà" là phạn ngữ, Trung Hoa dịch: Cố Hoạt, vì trước kia ông từng phát
nguyện sẽ trở thành vị lương y cứu sống mọi người, nên tùy nơi đức mà lập
danh. Tương truyền khi Kỳ Bà mới sanh ramột tay cầm đãy thuốc, một tay cầm
ống kim. Ông cũng là con của vua Tần Bà Sa La, thân mẫu là Yêm La Nữ ( Nại
nữ ), thấy anh muốn làm điều bội nghịch, nên cùng Nguyệt Quang cùng đến
can ngăn. Tỳ Đà La ( Vetàla), một bộ loại về chú thuật trong kinh điển Phệ Đà.
Kiếp sơ là thuở thế giới vừ thành lập, mới có loài người ở. Sát Đế Lỵ( Ksatriya)
là giai cấp vua chúa, Chiên đà la hoặc Thủ đà la ( Sùdra) là giai cấp tiện dân,
hai dòng giống sang hèn theo thế tập bên xứ Ấn Độ. Trước cảnh tượng người từ
mẫu chắp tay cuối đầu run sợ chờ chết, đứa con bất hiếu hung hăng cầm gươm
muốn chém đâm, quả thật bất nhẫn và đau lòng, nên hai vị đại thần cương
quyết can ngăn, là vì không nỡ thấy điều vô đạo ấy. Đưa tay đè chuôi gươm rồi
thối lui quay đi là cử chỉ thị oai khiến cho A Xà Thế kinh sợ, và tỏ ý quyết liệt.
A xà Thế nghe qua kinh sợ bảo: "Các ông không vì ta sao?> Kỳ Bà thưa:"nếu
đại vương muốn cho chúng tôi ở lại giúp đở, xin đừng giết hại Quốc Thái>. A
Xà Thế nghe nói, tỏ vẻ ăn năn vội cất gươm bỏ ý nghĩ giết mẹ, sai nội quan
cầm Quốc Thái phu nhơn trong thâm cung, không cho ra ngoài nữa.
Cau nói:"Các ông không vì ta sao?> là A Xà Thế sợ hiền thần bỏ đi, quốc vận
nguy khốn, lại e hai người ấy vốn bậc tài trí không biết có mưu đồ gì cứu thoát
vua Tần Bà Sa La mà lật ngược cuộc diện lại chăng? Sự kinh sợ của ông cũng
hữu lý và thiết thật. Câu hỏi của thế vương hàm nhiều ẩn nghĩa, lời đáp của Kỳ
Bà lại thẳng thắng nói rõ ra, cũng là ý can gián lần thứ hai. A Xà Thế tuy nhận
lời khuyên can, tỏ sắc ăn năn tra gươm vào song lại bảo nội quan giam cầm mẹ,
là mối dư hận của ông đối với thân mẫu hãy còn. Kỳ thật nếu ông ra lệnh giam
cầm Vi Đề Hy phu nhơn, duy bảo quan quân giữ chặt nơi ngục giam vua cha,
thì bà cũng không có phương tiện nào giúp đỡ Tần bà Sa la vương được.
Vi Đề Hy bị u cấm, sầu lo tiều tụy, xa trông về non Kỳ xà quật đảnh l Phật và
bạch rằng:"Đức Như Lai Thế Tôn ! lúc trước Ngài thường bảo hiền giả A Nan 
đến thăm viếng và khuyên dạy con. Nay con có việc lo buồn, không làm sao
còn được thấy oai nghi trang trọng của đấng Thiên Nhơn Sư nữa! Xin Đức Thế
Tôn thương xót cho hai vị tôn giả Mục Liên, A Nan đến dạy dỗ con>. Bạch
xong lời ấy, bà thương khóc nước mắt rơi xuống như mưa, hướng về chỗ Phật
thường ngự, cúi đầu đảnh lễ.
A Nan ( Ananda), Trung Hoa dịch là Khánh Hỉ hoặc vô nhim, vị hiền giả
thường hầu cận Đức Phật. Ngài A Nan được đức Phật thường nhận lời cầu
thỉnh, sai đến thăm viếng khuyên dạy vua và quốc hậu nước Ma kiệt Đà, vì sự
hoằng pháp độ người cần phải nhờ bậc có quyền thế, tuy Như Lai là đấng chí
thánh cũng chiều thuận theo thường tình để làm mô phạm cho đời sau. Bởi tự
thân ở nơi thâm cung, nên bà Vi Đề Hy không dám thỉnh Phật, mà chỉ xin mời
hai vị tôn giả. Trong hai ngài, Mục Liên là thầy của Bà, A Nan là vị đại đức
thường lui tới quen thân, nên mới có sự cầu thỉnh ấy. Trước đã lạy rồi, sau còn
đảnh l, là Quốc Thái phu nhân tỏ ý thành khẩn ân cần.
Bấy giờ Đức Thế Tôn đang ở núi Kỳ Xà Quật biết rõ tâm niệm bà Vi Đề Hy,
liền bảo hai tôn giả Mục Kiền Liên, A Nan theo lời yêu thỉnh bay đến cấm thất.
Và chính Ngài cũng ẩn thân tại núi Kỳ Xà Quật, hiện ra nơi vương cung. Khi
bà Vi Đề Hy l xuống vừa nguớc đầu lên, đã thấy Đức Thích Ca Mâu Ni Thế
Tôn ngồi trên toà sen bá bảo, thân sắc tử kim rực rỡ bên tả có Mục Liên, bên
hữu có A Nan đồng đứng hầu. Trên hư không, các Phạm Vương, Đế Thích và
hộ thế chư thiênmưa nhiều thứ hoa đẹp ở cõi trời phơi phới bay xuống để cúng
dường Phật.
Thích Ca Mâu Ni ( Sakyamuni ) Trung Hoa dịch Năng Nhân Tịch Mặc, bậc có
tâm nhân từ và chứng được giác tánh vắng lặng. Danh hiệu nầy tiêu biểu cho
hai đức Bi Trí, cũng hàm nghĩa Ứng thân, Pháp thân. Đức Phật dùng phép thần
thông ẩn nơi đây, hiện nơi kia theo cổ thích, có ba ý nghĩa :
1- Đức Thế Tôn là đấng cha lành trong tam giới, hiện thân của đức từ bi, vì
muốn hộ trì tâm niệm của vua A Xà Thế, nên không tự đi đến ngục thất, e ông
thấy mà khởi lòng sân hận.
2- Vì muốn lưu hành chánh pháp, phải nhờ cậy người quyền thế, nên không
muốn làm mất lòng một vị quốc vương.
3- Vì tiêu biểu địa vị và sức thần thông của Đức Như Lai cao siêu hơn hàng
Thinh Văn, Duyên Giác, Phạm Vương là vị vua của cõi trời Phạm Thiên (
Brahmadeva ), danh từ này cũng chỉ chung cho chư Thiên đã thành tựu Phạm
hạnh ở cõi Sắc giới. "Phạm" có nghĩa là "trong sạch", vì chư thiên đã ở đó đã
xa lìa sự dục nhim. Đế Thích tức Thích Đề Hoàn Nhân; gọi cho đủ là Thích Ca 
Đề Bà Nhân Đà La ( Sakradevànam-Indra ), Trung Hoa dịch là Năng Thiên
Chủ. Đây là vị chúa tể ba mươi ba Thiên Quốc ở cõi Đao Lợi. "Hộ Thể" là chỉ
cho Tứ Thiên Vương. "Chư Thiên" là nói chung cõi trời ở hai cõi Dục và Sắc.
Thiên chúng thấy Phật ẩn thân tại Kỳ Xà Quật, hiện ra nơi vương cung, nghĩ
rằng : Đức Thế Tôn tất sắp nói Pháp hy kỳ, mình sẽ nhân bà Vi Đề Hy mà được
sự lợi ích chưa từng nghe, nên đồng đến phụng thị mà mưa hoa cúng dường.
Vi Đề Hy phu nhân thấy Đức Thế Tôn, liền tự bứt chuổi Anh Lạc đeo nơi thân,
gieo mình phủ phục xuống đất, khóc lóc và thưa rằng: Bạch Đức Thế Tôn !
Kiếp trước con có tội chi nay sanh ra đứa con ác này. Và Đức Như Lai lại có
nhân duyên gì, mà cùng với Đề Bà Đạt Đa đồng làm quyến thuộc? Cúi xin Đức
Thế Tôn vì con giảng giải rộng những cõi nào không còn lo buồn khổ lụy để
con được vãng sanh về đó. Hiện nay con rất nhàm chán cõi Diêm Phù Đề nhơ
khổ, bởi cõi này dẫy đầy chúng điạ ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, cùng nhiều điều
lỗi lầm xấu ác. Con nguyện kiếp sau không còn thấy người dữ, không còn nghe
tiếng ác nữa ! Nay con gieo năm vóc trước Đức Thế Tôn, tha thiết cầu xin sám
hối ! Nguyện đấng đại từ soi ánh huệ nhật, chỉ dạy cho con phép quán để sanh
về chổ nghiệp lành thanh tịnh.
Vi Đề Hy phu nhân khi thấy phật liền bứt chuỗi ngọc, vì bậc vương hầu như bà
duy sang cả đối với hạng thần dân, sánh với đấng Đại Giác còn vô cùng thấp
kém: hành động đó làm biểu lộ: trước Đức Thế Tôn mình chỉ là kẻ phàm phu
đầy tội lỗi, không có chi đáng tôn trọng. Lại sự trang sức đối với thế gian, là
nghiệp tham mhim, trước đấng giác ngộ trong lành, bà cảm thấy hổ thẹn nên
vội bức chuổi Anh Lạc. Câu ; "Kiếp trước con có tội chi..." là phu nhơn đã
nhận rõ cõi đời dẫy đầy tội ác, tự nghĩ mình là người thế tục lỗi lầm vương vào
cảnh con mưu giết mẹ đã đành, đến chư Phật là bậc chí thiện tại sao còn bị Đề
Bà Đạt Đa nhiều phen ám hại ? câu hỏi của bà không ngoài ý niệm tỏ ra chán
nản cõi đời ác trược, để làm nhân phát khởi lời thỉnh vấn sau là cầu xin đức Thế
Tôn chỉ điểm quốc độ an lành và phương pháp vãng sanh để cho mìmh tu tập.
Diêm Phù Đề ( Jambudvipa ), Trung Hoa dịch là Thắng Kim, vì phía bắc châu
này có thứ cây Diêm Phù, dưới cây ấy có chất vàng rất qúy tên Diêm Phù Na
Đàn. Đây là lấy tên cây để lập danh xứ sở. Một thuyết khác nói cây Diêm Phù ở
mé biển phía bắc của châu Nam Thiện Bộ. Dưới đáy biểc có chất vàng Diêm
Phù Na Đàn chói lên làm cho nước biển và cây ánh ra sắc vàng rực rỡ. Năm
vóc cũng gọi là ngũ thể hay ngũ luân tức là đầu và tứ chi. Sám hối là danh từ do
tiếng Phạn và Hoa kết hợp. "Sám" gọi cho đủ là Sám ma, Trung Hoa dịch là
"hối vãn" có nghĩa la ăn năn lỗi trước, đây là Phạn ngữ. "Hối" ý nghĩa cũng như
"sám", thuộc về Hoa âm. Bà Vi Đề Hy xét nghĩ Tịnh Độ là cõi sạch lành, e
mình nhiều nghiệp chướng khó được duyên nghe pháp và vãng sanh, nên đã
thành khẩn thỉnh cầu còn tha thiết sám hối để cho tiêu nghiệp. Pháp của Đức 
Phật nói từ nơi trí huệ chân thật phát sanh, có thể phá tan màn vô minh phiền
não, nên gọi là huệ nhật. Đây là danh từ nêu cả pháp và dụ. Câu chỉ dạy cho
con phép quán ...> là bà Vi Đề Hy muốn biểu lộ là mình đã nhàm chán cõi nhơ
ác, không còn luyến tưởng đến kẻ thân sơ, có thể an tâm dứt muôn duyên để
quán niệm cảnh thanh tịnh . Trước phu nhân đã thỉnh cầu Phật chỉ bày cõi an
lành, sau lại hỏi về phương cjâm vãng sanh. Phần tự trần thuật nhân duyên khải
phát đến đây đã xong. Kế sau là đoạn chánh thức của kinh này, Đức Phật sẽ vì
bà Vi Đề Hy chỉ dạy rõ pháp thức tu tập.

---o0o---

II - Phần Chánh Tông

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn, từ nơi tướng bạch hào giửa đôi mi, phóng ra ánh
sáng vàng rực rỡ soi khắp vô lượng thế giới ở mười phương. Hào quang ấy trở
lại trụ trên đảnh của Phật, hoá thành đài vàng như núi Tu di. Những cõi nước
trong sạch nhiệm mầu của chư Phật mười phượng đều hiện rõ nơi toà quang
minh đó. Trong vô số quốc độ ảnh hiện ấy, có cõi do bảy báu hợp thành, có cõi
thuần là hoa sen, có cõi tráng lệ như cung trời Đại tự tại, có cõi sáng suốt như
gương pha lê.
Vô lượng tịnh độ hiện bóng nơi đài quang minh, mỗi miền một vẽ rất rõ ràng,
cực nghiêm đẹp. Sau khi dùng thần thông hiển thị các cõi trang nghiêm xong,
Đức Thế Tôn bảo bà Vi Đề Hy nên tùy ý mình lựa quốc độ nào mà tâm mình
ưa thích.
"Bạch Hào" là tướng lông trắng giữa đôi mày của đức Phật, Hào tướng này
trắng ngần như tuyết, dài một trượng năm thước ( thước tấc Trung Hoa ), có
tám gốc, rỗng như pha lê, xoay quanh qua bên hữu thành hình tròn như nửa hạt
châu úp xuống, bề chu vi năm tấc. Đây cũng gọi là Đại nhân tướng, Ánh sáng
do nơi bạch hào phóng ra là tiêu biểu cho từ trung đạo lưu xuất các pháp. Đức
Thế Tôn phóng bạch hào quang soi các cõi mười phương, rồi dùng ánh sáng ấy
thu nhiếp hình bóng vô số quốc độ đem vê trụ trên đảnh; tướng trước tan sau tụ
này tiêu biểu cho ý nghĩa "nhiếp nhiều về một", cũng để hiện rõ bản kinh thuộc
pháp viên đốn nhứt thừa. Tu Di ( Sumeru ), Trung Hoa dịch là Diệu Cao sơn,
núi này trên dưới rộng ra, khoảng giửa eo lại. Ánh sáng tụ về hóa thành đài
vàng giống như hình núi Tu Di, bao nhiêu tịnh quốc đều hiện trong đó, bà Vi
Đề Hy được thấy rõ ràng tất cả, là do thần lực của Phật gia bị.
Cõi do bảy báu hợp thành, chỉ cho sự tôn quý. Cõi thuần là hoa sen chỉ cho sự
trong sạch. cõi như cung trời Đại Tự Tại, chỉ cho sự vui vẻ. Cõi như gương pha
lê, chỉ cho sự sáng ngần. Đây là duy kể phần đại lược. Bà Vi Đề Hy thỉnh cầu 
chỉ miền an lạc, đức Phật không dùng ngôn thuyết giảng giải rộng ra, duy
phóng ánh sáng chỉ bày các cõi trang nghiêm, đó là
hiển rõ phần ý mật của Như Lai. Bởi dù đức Thế Tôn có nói nhiều mà Vi Đề
Hy không thấy, tất chưa khỏi lòng còn nghi hoặc, nên Phật mới hiển thị các
Tịnh Độ cho bà sinh lòng tin tưởng ưa thích và tùy ý lựa chọn.
Bà Vi Đề Hy phu nhơn quan sát kỹ các Phật quốc rồi thưa rằng : " Bạch đức
Thế Tôn ! Các tịnh độ ấy tuy đều nghiêm sạch và có ánh quang minh, nhưng
nay con chỉ thích được sanh về thế giới Cực Lạc của Phật A Mi Đà. Cúi xin
đức Thế Tôn dạy con phép tư duy và chánh thọ".
Bà Vi Đề Hy lựa cõi Cực Lạc trong vô số tịnh độ, bởi có ba lý do :
1- Vì nhơn duyên của bà thích hợp với cõi Cực Lạc.2- Vì do nguyện lực thù
thắng của Phật A Mi Đà chiêu cảm.3- Vì phải lựa chọn một cõi để tu quán, tâm
niệm mới dễ được quy nhất. Trên quán hạnh, bước phương tiện đầu tiên tác ý
duyên cảnh gọi là "tư duy". Khi phép quán tưởng đã thành, tâm được tự tại khế
hợp với chân cảnh gọi là "chánh thọ". Chẳng hạn như trong môn địa quán có
nói:" Quán tưởng như thế gọi là thấy đất ở cõi Cực Lạc về phần thô". Đây
chính là "tư duy". Và nếu được tam muội thấy đất ở An Dưỡng quốc rõ ràng
mầu nhiệm, không thể dùng lời nói din tả cho hết, gọi là "chánh thọ".
Khi ấy đức Thế Tôn liền mỉm cười, từ nơi miệng tuôn ra năm sắc quang minh,
mỗi tia sáng đều chiếu đến đỉnh đầu vua Tần Bà Sa La. Lúc đó Tần Bà Sa La
vương tuy bị giam cầm song tâm nhãn không chướng ngại từ nơi xa trông thấy
đức Thế Tôn liền cúi đầu đảnh l, đạo căn tự nhiên tăng tiến, chứng được quả A
Na Hàm.
Vi Đề Hy phu nhơn phát lời hỏi trên đã xứng với bản tâm của Phật, lại hợp với
đại nguyện của đức A Mi Đà. Với lời hỏi ấy, chẳng những riêng bà thọ phần
pháp ích, mà chúng sanh đời sau cũng do đó được hưởng nhiều lợi lạc, nên đức
Như Lai mới mỉm cười. Kinh Quán Phật Tướng Hải nói : "Pháp thường của
chư Phật, khi cười tất có ánh sáng năm sắc từ nơi miệng chiếu ra". Nhưng khi
Phật từ nơi thân phóng ra ánh sáng, tùy theo mỗi chỗ đều có ý nghĩa và sự lợi
ích riêng. Như ánh sáng từ nơi chân Phật phóng ra, là chiếu ích chúng sanh ở
địa ngục, từ nơi đầu gối phóng ra, chiếu ích cho chúng bàng sanh. Từ nơi âm
tàng phóng ra, chiếu ích cho chúng quỷ thần. Từ nơi rún phóng ra, chiếu ích
cho chúng A Tu La. Từ nơi ngực phóng ra, chiếu ích cho loài người. Từ nơi
miệng phóng ra, chiếu ích cho hàng Nhị thừa. Từ giửa đôi mày phóng ra, chiếu
ích cho bậc căn tánh đại thừa. Nay ánh sáng này từ nơi kim khẩu phóng ra,
chiếu ngay đỉnh đầu vua Tần Bà Sa La, tức tiêu biểu Phật thọ ký cho vua chứng 
được tiểu quả. Nếu ánh sáng từ nơi bạch hào phóng ra rồi trở vào đảnh Phật, là
đức thế tôn thọ ký cho đương nhơn quả vị Bồ Tát.
A Na Hàm, Trung Hoa dịch là Bất Hoàn. Đây là quả thứ ba của hàng Thanh
Văn, người chứng quả này hoặc nghiệp sắp hết, khi xả thân sanh ngay lên cung
trời Tịnh Cư, không còn trở xuống hạ giới nữa. Đức Phật phóng quang gia bị
Tần Bà Sa La vương khiến cho đức vua đạo nhãn mở mang, chứng được thánh
quả xem cái chết như giấc ngủ không còn lo lắng sợ hãi nửa. Vi Đề Hy phu
nhơn cũng nhân ánh sáng đó, thấy vua được lợi lạc, nên không còn buồn rầu,
yên tâm học đạo. Vua Tần Bà Sa La thấy Phật, đắc quả, lẽ ra cùng với phu
nhơn đồng nghe quán pháp, nhưng trong phần kết ích chỉ nói đến bà Vi Đề Hy
cùng năm trăm thị nữ, cứ theo đó thì biết sau khi chứng đạo vua liền xả thân
qui tịch.
Bấy Giờ, đức Thế Tôn bảo Vi Đề Hy: "Ngươi có biết chăng? Phật A Mi Đà
cách đây không xa, ngươi nên hệ niệm và quán sát kỹ cõi nước kia, tất tịnh
nghiệp sẽ được thành tựu. Nay ta vì ngươi nói rộng các thí dụ, cũng khiến cho
đời vị lai, tất cả phàm phu muốn tu tịnh nghiệp, được sanh về thế giới Cực Lạc
ở phương tây.
Muốn sanh về cõi ấy, phải tu ba thứ phước: 1. Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ
sư trưởng, giữ lòng từ bi không giết hại, tu mười nghiệp lành. 2. Thọ trì tam
quy, giữ vẹn các giới, đừng phạm oai nghi. 3. Phát lòng bồ đề tin sâu lý nhân
qủa, đọc tụng kinh đại thừa, khuyến tấn người tu hành. Ba điều như thế, gọi là
tịnh nghiệp.
Câu "Cõi Phật A Mi Đà cách đây không xa, có ba ý nghĩa: 1. Thế giới cực lạc
tuy cách miền Ta Bà mười muôn ức Phật độ, nhưng tất cả đều ở trong chân tâm
của ta không rời gang tấc, nên nói không xa. 2. Lộ trình mười muôn ức tuy rằng
diệu viên, nhưng nếu người tu tịnh nghiệp thành tựu, cùng với định cảnh tương
ưng, tất sẽ được thường thấy cõi liên bang, khi lâm chung trong một niệm liền
đi đến. 3. Hạng phàm phu tịnh nghiệp tuy chưa được thần thông, song nhờ sức
Phật tiếp dẫn nên được vãng sanh dê~ dàng. Câu "nói rộng các thí dụ", chẳng
phải ý nói cõi Cực lạc không có, mà vì cảnh Tây phương vi diệu, tâm phàm phu
khó nổi ược lượng, nên đức Phật mới tạm mượn một vài sự kiện ở cõi này để so
sánh; chẳng hạn đất ở Cực Lạc trong suốt như lưu ly, muốn tưởng đất ấy trước
phải quán tưởng một vùng băng tuyết, rồi lần lần từ phương tiện đi vào thật thật
cảnh.
Vì căn cơ của chúng sanh có định và tán, nếu chỉ nói về định môn tất không thể
nhiếp độ hết quần sanh, nên đoạn sau đức Phật lại mở ra tán môn, tức là dạy tu
ba thứ phước để được vãng sanh. Mười nghiệp lành là: không sát sanh, không 
trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không nói thêu dệt, không nói đôi
chiều, không nói lời thô ác, không tham lam, không giận hờn, không si mê tà
kiến. Trong đây tóm lại có ba nghiệp lành của thân, bốn nghiệp lành của miệng,
và ba ba nghiệp lành của ý. "Các giới" là chỉ cho Ngũ giới, Bát quan trai giới,
Thập giới, Cụ túc giới, Bồ tát giới; nếu người đã thọ giới nào, phải cố gắng giữ
cho tròn các giới ấy. Sự thọ trì mỗi loại giới đều có chia làm ba bậc: thiểu phần,
đa phần và toàn phần. Nếu Phật tử đã trì tam quy mà không giữ giới thì phước
lực kém yếu, vì thế đức Như Lai khuyên nên tùy phần mà lãnh thọ. "Đừng
phạm oai nghi" là nói người tu tịnh nghiệp trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, nói
năng, động tĩnh phải giữ cho nghiêm chỉnh đoan trang, nếu có phạm liền tự răn
trách sám hối. Phát lòng Bồ Đề" là phát tâm cầu qủa Phật để độ mình độ người
. Rành rẽ lý cơ cảm thiện ác cho đến trong niệm vi tế, gọi là "tin sâu nhân qủa".
Đức Phật lại bảo: "Vi đề Hy nên biết ba thứ phước này là chánh nhân tịnh
nghiệp của chư Phật trong ba đời: quá khứ, vị lai, và hiện tại".
Qủa đức trong ba đời do đó mà thành nên gọi là "chánh nhân". Đây là câu kết
luận dẫn gương Phật, Thánh để khuyến tấn phàm phu . Nói thời gian niệm tại
sau cùng là đức Thế Tôn muốn chỉ ngay cho bà Vi Đề Hy biết một cách thiết
thật: y chánh của chư Phật trong mười phương hiện nay và của đức A Mi Đà
đều do ba thứ tịnh nghiệp trên mà thành tựu .
Đức Thế Tôn khen Vi Đề Hy và bảo A Nan: "Lành thay, Vi Đề Hy! Hôm nay
người đã khéo hỏi việc ấy! Hãy chú tâm lắng nghe và suy nghĩ kỹ. Như Lai sẽ
vì tất cả chúng sanh bị giặc phiền não bức hại đời vị lai mà nói ra nghiệp thanh
tịnh.
Này A Nan! ông nên ghi nhớ và thọ trì pháp này, rồi tuyên thuyết cho đại
chúng cùng biết. Nay ta sắp dạy Vi Đề Hy và chúng sanh đời sau phép quán thế
giới Cực Lạc ở phương tây . Do nhờ sức Phật, hành giả sẽ được thấy cõi nước
thanh tịnh kia như người cầm gương sáng tự trong thấy mặt mình. Khi hành
nhơn thấy sự vui rất mầu nhiệm ở cõi kia rồi, sanh lòng vui mừng, liền được trụ
vào sô sanh pháp nhẫn".
Lời hỏi của bà Vi Đề Hy rất hợp với lòng từ bi lợi sanh của đấng Thiên Nhơn
Sư, nên đức Phật mới khen ngợi . Câu "Hãy chú tâm lắng nghe, và suy nghĩ
kỹ", là chỉ cho hai phần văn và tư huệ. "Chúng sanh bị giặc phiền não bức hại"
là chỉ cho hàng phàm phu còn đủ nghiệp hoặc thiêu đốt ràng buộc. "Nghiệp
thanh tịnh" tức chỉ cho mười sáu phép quán sau đây; vì khi hành giả chuyên
tâm quán tưởng, trong mỗi niệm tội chướng được tiêu trừ, tâm địa lần trở thành
sáng sạch, nên gọi là thanh tịnh. 
Đức Phật thuyết pháp không phải lợi ích riêng cho bà Vi Đề Hy, mà chính
muốn tất cả kẻ hữu duyên đồng được tế độ, nên Thế Tôn mới bảo ngài A Nan
thọ trì và tuyên thuyết lại cho đại chúng nghe . "Do nhờ sức Phật" ý nói tịnh
cảnh tuy nhiệm mầu , nhưng nhờ sức Phật gia bị nên khi tu quán môn này hành
giả sẽ được thấy cõi Cực Lạc. Vô sanh pháp nhẫn đây theo hai ngài Thiện Đạo
và Nguyên Chiếu, chỉ ước về địa vị sợ trụ. Đoạn trên là đức Phật cứ theo định
môn mà khai thị quán duyên.
Phật bảo Vi Đề Hy: "Ngươi là phàm phu, tâm tưởng yếu kém, chưa được thiên
nhãn, không thể ở xa mà trông thấy cõi Cực Lạc. Chư Phật Như Lai có phương
lạ khiến cho ngươi được thấy cõi kia"
Vi Đề Hy thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Hôm nay con nhờ sức Phật được thấy
quốc độ kia. Nếu sau khi Thế Tôn tịch diệt, những chúng sanh trược ác không
lành, bị ngũ khổ bức não, phải làm t hế nào để được thấy Phật A Mi Đà và cõi
Cực Lạc?
Bà Vi Đề Hy, trước nhờ Phật hiện đài quang minh nên được thấy cõi Cực Lạc.
Nhưng phu nhơn vì lòng thương xót, muốn chúng sanh đời sau được sự lợi ích
về Tịnh Độ nên mới thưa hỏi phương pháp để được thấy miền An Dưỡng và vị
hóa chủ ở cõi ấy. Tấm lòng luôn luôn nghĩ đến sự lợi ích cho chúng sanh này,
cũng là bi tâm của Bồ tát.
"Ngũ khổ" có vị cho là năm món trước của bát khổ. Nhưng thuyết này nếu căn
cứ nơi đại bản Mi Đà, thì dường như đúng hơn. Theo kinh Vô Lượng Thọ,
những chúng sanh thọ sự bức não của ngũ ác, ngũ thống, ngũ thiêu gọi là ngũ
khổ. Ngũ ác là phạm năm điều lỗi của ngũ giới . Khi phạm năm điều này,
đương nhân phải chịu những kết qủa đau buồn do lầm lỗi của mình, gọi là ngũ
thống. Và do những tội lỗi ấy, tương lai sẽ bị đọa tam đồ gọi là ngũ thiêu.

---o0o---

Mười Sáu Phép Quán

1--Quán Sát Mặt Trời Sắp Lặn (Nhật Quán)
Đức Phật bảo: "Vi Đề Hy! Ngươi và chúng sanh nên chuyên tâm, buộc niệm
một chỗ, để tưởng cảnh giới tây phương. Phương pháp này quán tưởng ấy như
thế nào ?
Phàm tất cả những người, nếu không phải bị mù từ lúc sơ, sanh, đều thấy mặt
trời lặn. Vậy ngươi nên ngồi ngay thẳng, hướng về phương tây, tâm chúng định 
một chỗ không được ái động, rồi quán tưởng mặt trời sắp lặn hình như cái trống
treo. Khi đã thấy thình tướng ấy, phải chú tưởng cho thuần thục, làm sao lúc
nhắm mắt mở mắt đều được thấy rõ ràng. Môn nhật quán này là phương pháp
quán tưởng thứ nhứt.
Câu "Vi Đề Hi! ngươi và chúng sanh" là lời trân trọng khuyến nhủ của đức
Phật, ý bảo: nếu Vi Đề Hy phu nhơn cùng chúng sanh muốn lìa biển trần lao,
lên bờ giải thoát, phải chú tâm nghe, suy nghĩ, và tu tập theo phương pháp sau
đây:
Môn quán thứ nhất "tưởng mặt trời sắp lặn" có ba thâm ý:
1. Tâm ý chúng sanh vẫn thường tán loạn, muốn thành tựu các phép quán vi
diệu sau, trước phải tập trung tư tưởng để lần lần đi sâu vào thâm định.
2. Cõi Cực Lạc ở phương tây, đức Phật muốn cho hành giả tâm niệm khuynh
hướng về Tây phương, để sự vãng sanh d được thành tựu. Theo Kinh Vô
Lượng Thọ thì nếu kẻ nào dùng tâm nghi ngờ tu công đức tịnh độ, tất sẽ lạc vào
biên địa cõi Tây phương và có thể bị đọa trở lại kiếp thai sanh. Vì thế cổ đức
cho đây là phương tiện phá nghi và kiên cố thêm niềm tin Cực Lạc.
3. Để cho hành giả tự biết nghiệp chướng mình nhẹ hay nặng mà chuyên tâm
sám hối.
Theo Thiện Đạo đại sư, vị tổ thứ hai của Tịnh độ tông, thì người muốn trụ tâm
nơi nhật quán, trước phải lựa chỗ thanh vắng ngồi kiết dà, tuần tự giữ đúng theo
pháp điều thân và điều tức. Kế đó lại tưởng tứ đại nơi thân mình, địa đại tan về
phương tây, thủy đại tan về phương bắc, phong đại tan về phương đông, hỏa
đại tan về phương nam, cho đến không còn một mảy trần. Lại tưởng không đại
của thân dung hợp với hư không mười phương, khắp các nơi toàn là hư không,
chẳng còn một điểm trần nào. Xong, lại tưởng năm đại của tự thân đều không,
duy còn có thức đại ngưng đọng lặng trong, dường như mặt gương toàn sáng.
Sau khi trải qua các phương tiện trên, loạn tưởng được tiêu trừ, tâm lần lần an
định. Rồi mới từ từ xoay tâm hướng về phương Tây quán kỹ tướng mặt trời sắp
lặn.
Nếu là bậc thượng căn, thì khi khởi quán, liền thấy tướng mặt trời lặn hiện ra,
đang khi cảnh hiện, hành giả hoặc thấy vầng nhật như đồng tiền lớn, hoặc như
mặt gương tròn to. Cứ nơi hiện tướng ấy mỗi người tự thấy nghiệp chướng
mình nặng hay nhẹ. Các tướng nghiệp ấy như sau: 1. Hắc chướng, như mây đen
che mặt trời. 2. Hoàng chướng, như mây vàng che mặt trời. 3. Bạch chướng
như mây trắng che mặt trời. Đại để như khi mặt nhật bị các thứ mây khói che 
thì hình tướng không hiển lộ; khi tâm chúng sanh bị nghiệp che, tất quán cảnh
không đưọc sáng lặng rõ ràng. Nếu thấy biết nghiệp tướng của mình, hành giả
phải sửa sang đạo tràng cho nghiêm sạch, rồi chí tâm sám hối, kỳ chừng nào
nghiệp tiêu hết mới thôi.
Lúc tâm được thanh tịnh, tướng mặt nhật hiện ra sáng suốt rõ ràng, hành giả
cũng đừng sanh tâm chấp trước. Nếu khởi lòng tham chấp, nhật tướng sẽ rung
động, hoặc mờ ám, hoặc biến đổi thành nhiều màu, tự tâm mình cũng không
yên. Phải dứt lòng tham trước, nhiếp tâm vào định, các tướng ấy sẽ mất. sự tà,
chánh, đắc, thất của các môn quán sau cũng đồng như đây. Đại để như quán
mặt trời thấy mặt trời, tâm cảnh sáng lặng tương ưng, gọi là chánh quán. Nếu
quán mặt trời thấy các hình tướng tạp, tâm cảnh rối động không tương ưng là tà
quán.

---o0o---

2. Quán Nước Ðóng Thành Băng (Thủy Quán)

Kế lại quán tưởng nước, thấy một vùng nước trong suốt đứng lặng; phải thấy
cho rõ ràng, ý đừng phân chia rối loạn. Khi thấy tướng ấy rồi nên tưởng nước
đóng thành băng. Đã thấy băng trong ngần sáng ánh, lại tưởng đó là đất lưu ly.
Đây là môn thủy tưởng, cũng là phép quán thứ hai.
Môn quán này dẫn nhập có ba lớp chuyển biến; trước tưởng nước, kế đó tưởng
băng, sau lại tưởng lưu ly. Vì đất lưu ly ở cõi này tuyệt không, mà nước đóng
thành băng loài người có thể thấy biết được, nên phải mượn phương tiện trên.
Lại đất ở cõi này có núi non gò nỗng hầm hố cao thấp không đồng, nên Phật
muốn đem mặt nước để chỉ sự bằng phẳng của bảo địa nơi cõi kia.
Theo cổ đức, người muốn tu phép quán này, về oai nghi trụ thân cũng đồng như
môn nhật quán. Hành giả nên ở chỗ vắng lặng, nơi giữa đôi mày dán một miếng
giấy trắng tròn bằng hạt đậu, rồi ngồi đối trước bồn nước, một lòng chăm chú
nhìn vào điểm trắng của bóng mình in trong nước. Ví như người đứng gần ao
nước sóng gợn thì thấy bóng gương mặt mình in trong nước thoạt dài thoạt
ngắn, thoạt rộng thoạt hẹp, thoạt có thoạt không. Nếu người ấy đem hết tâm tư
chăm chú nhìn vào bóng gương mặt, thì giây lâu cảm thấy sóng lần lần nhỏ,
tướng gương mặt lần hiển lộ. Đó là do công năng của định tâm. Phương tiện
chăm chú nhìn điểm trắng giữa đôi mày của bóng mình in trong nước để đi đến
định tâm cũng như thế. Nếu khi nhìn thấy điểm trắng di động là tâm mình còn
chưa lắng yên. Lúc thấy điểm trắng không di động, phải thử xem định tâm của
mình thuần nhất chưa; trước tiên lấy hạt gạo; kế đó lấy hạt đậu, sau lại lấy hạt 
táo liệng vào bồn nước. Nếu cả ba lần thử, vẫn thấy điểm trắng bất động, đó là
tâm đã an trụ. Phương tiện này khi tập thành, sự tưởng nước đứng lặng, tưởng
băng, tưởng đất lưu ly không khó.

---o0o---

3. Quán Cảnh Tướng Trên Dưới Ðất Lưu Ly (Bảo Ðịa
Quán)
Môn tưởng này thành rồi, tiếp quán thấy đất lưu ly trong ngoài chói suốt. Dưới
ấy có tràng kim cương thất bảo vàng ánh đỡ đất lưu ly. Tràng này có đủ tám
góc theo tám phương, mỗi mỗi phương diện do trăm thứ báu hợp thành, mỗi
mỗi bảo châu có ngàn tia sáng, mỗi mỗi tia sáng có tám vạn bốn ngàn màu,
chói đất lưu ly như ngàn ức mặt trời, nhìn không thể xiết!
Đây là chuyển quán từ thể đất lưu ly trong suốt, hiện ra các tướng trang
nghiêm. Trong Vãng Sanh Luận, ngài Thiên Thân đã din tả: "Quán tướng thế
giới kia. Thắng diệu hơn ba cõi. Cứu cánh như hư không. Rộng lớn không biên
tế". Mấy câu này là thuyết minh chung về phần lượng đất đai ở cõi Cực Lạc.
Đoạn kinh văn trên đây đã chỉ rõ sự trang nghiêm dưới bảo địa. Trong ấy nếu tế
phân ra, có bảy sự kiện. 1. Thuyết minh tràng thể là chất vô lậu kim cương. 2.
Bảo tràng đỡ đất sáng rỡ trang nghiêm. 3. Bảo tràng có các góc theo tám
phương. 4. Tràng ấy do trăm thứ báu hợp thành, số lượng như trần sa. 5. Các
báu phóng ra không lường tia sáng chiếu suốt đến vô biên tế. 6. Ánh sáng nhiều
màu sắc lạ khác nhau, soi khắp các phương tùy cơ biến hiện. 7. Những quang
sắc ấy tỏa muôn phương sáng rỡ như ngàn ức mặt trời; người mới sanh về
không thể nhìn khắp hết được. Có lời khen rằng:
Kim cương thất bảo tràng,
Rực rỡ sắc thần quang!
Tám mặt thành châu báu,
Muôn phương tỏa ánh vàng.
Nhiệm mầu trăm niệm dứt,
Trong sạch điểm trần tan.
Quán ngộ vô sanh nhẫn,
Siêu vào Cực Lạc bang!
Trên đất lưu ly có dây hoàng kim xen lẫn cùng thất bảo, phân chia các khu vực
rành rẽ trang nghiêm. Mỗi mỗi thứ báu có năm trăm sắc kỳ quang. Các ánh
sáng này hình như hoa, hoặc như trăng, sao, chiếu lên hư không kết thành đài
quang minh lơ lửng. Ngàn muôn lâu các do trăm thứ báu hợp thành, mỗi mỗi 
lâu đài, hai bên đều có trăm ức tràng hoa cùng vô lượng nhạc khí để trang
nghiêm. Tám thứ gió nhẹ mát từ những đài quang minh thổi ra, cổ động các
nhạc khí, din thành tiếng: khổ, không, vô thường, vô ngã.
Trước đã nói sự trang nghiêm dưới đất lưu ly, đoạn này lại trần thuật cảnh trang
nghiêm nơi bảo địa và hư không. Theo ngài Thiện Đạo, dây vàng chỉ cho
đường sá bằng vàng ròng phân chia các khu vực dường như những sợi dây
bằng vàng. Có chỗ nói là từng khoảng cột trụ thấp treo dây liên tỏa bằng vàng.
- Cực Lạc, hoặc lấy tạp bảo làm đất, lưu ly làm đường; hoặc lấy lưu ly làm đất,
bạch ngọc làm đường, hoặc lấy tử kim, bạch ngân làm đất, trăm báu làm
đường; hoặc lấy ngàn muôn thứ báu làm đất, hai, ba thứ trân bảo làm đường;
hoặc lấy bất khả thuyết thứ báu làm đất, bất khả thuyết thứ báu làm đường.
Như thế, đất đai và đường sá do từ một cho đến vô lượng thứ báu thay đổi xen
lẫn hợp thành, mỗi mỗi hào quang, màu sắc đều không đồng ma không tạp
loạn. Hành giả chớ lầm tưởng đường sá chỉ bằng vàng mà không có các thứ báu
khác.
Từ câu "mỗi mỗi thứ báu có năm trăm sắc kỳ quang" về sau, là nói sự trang
nghiêm trên hư không. Trong ấy có sáu điểm: 1. châu báu phóng ra nhiều ánh
sáng; 2. Nói các thí dụ để hiển tướng của ánh sáng; 3. Ánh sáng kết thành đài
quang minh; 4. Ánh sáng biến thành lâu các; 5. Áng sáng biến thành tràng hoa
và nhạc khí; 6. Từ quang đài phát ra gió nhẹ cổ động nhạc khí thành tiếng pháp.
Gió sanh từ tám phương nên nói tám thứ, vì cõi kia không thời tiết, đức Phật
muốn tỷ đối cõi này nên gọi là "tám". Có lời khen rằng:
Đất báu trang nghiêm khó sánh lường,
Nhiệm mầu quang sắc chiếu mười phương,
Lầu châu các ngọc hòa thanh nhạc,
Lá bích hoa quỳnh lẫn diệu hương.
Bảo đài lấp lánh vẻ kim ngân,
Bảo cái quang huy tự chuyển vần,
Phi phất bảo tràng theo gió thoảng,
Hư không nghìn sắc bảo hương vân.
Tùy tâm nhạc báu lững lờ xoáy,
Buông tiếng viên âm, ánh sáng dài.
Trần niệm ngàn muôn đều tuyệt tích.
Không gian thánh chúng nhẹ nhàng bay.
Khi môn tưởng này đã thành, phải quán mỗi mỗi chi tiết cho cực rõ ràng, nhắm
mắt mở đều có thể thấy, không để tan mất duy trừ giờ ăn ngủ, ngoài tất cả thời
đều ghi nhớ việc ấy. Tưởng được như thế gọi là thấy cõi Cực Lạc về phần thô.
Nếu được tam muội, hành giả sẽ thấy rõ ràng cảnh tướng của đất nước kia,
không thể kể xiết. 
Đây là môn địa tưởng, thuộc về phép quán thứ ba.
Đức Phật bảo ngài A Nan: "Ông nên ghi nhớ dạy của ta, để vì tất cả chúng sanh
muốn thoát khổ đời sau truyền thuyết môn địa quán này. Nếu thành tựu phép
tưởng đây, sẽ trừ được trong tám mươi ức kiếp sanh tử. Khi xả báo thân, kẻ ấy
quyết định sanh về tịnh quốc, nơi lòng không còn nghi ngại".
Quán như thế, gọi là chánh quán. Nếu tưởng sai khác, là tà quán.
Cảnh Cực Lạc tuy nhiệm mầu, nhưng người tu nếu dùng lòng tín thành chuyên
chú, y theo lời dạy mà hành trì, nhờ sức Phật gia bị, sẽ tự được thấy. Môn
tưởng này có hai phần: nếu thấy phần thô thuộc về tiệm tưởng quán, thấy phần
tế diệu gọi là thật quán.
Chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay hằng đọa tam dồ chịu nhiều nỗi khổ, dù
được hưởng phước nhơn thiên cũng mong manh như bọt nước, sương mai.
Người nào truyền pháp Tịnh độ để cho loài hữu tình được giải thoát, tức là làm
thỏa mãn bi tâm của Phật và bản hoài xuất thế của Như Lai. Cho nên đấng Điều
Ngự mới ân cần bảo ngài A Nan tuyên hoá. Kinh Thanh Tịnh Giác nói: "Nếu
người nào đối với môn Tịnh Độ nghe như không nghe, biết như không biết, tất
kẻ ấy vừa ở tam ác đạo ra hoặc còn nhiều tội chướng, nên không sanh được
lòng tin tưởng. Như Lai nói kẻ ấy kém phúc duyên trên đường giải thoát. Lại
Kinh nói: "Nếu người nào nghe pháp Tịnh Độ liền thương mừng rơi lệ, cảm
động đến các chân lông nơi thân đều rợn đứng, nên biết kẻ ấy đời trước đã từng
nghe, tin và tu tập môn này. Như kẻ ấy chánh niệm tu hành, tất sẽ được vãng
sanh".
Tóm lại, môn địa quán nếu tu thành, tất diệt được vô biên tội chướng. Đời nhà
Đường bên Trung Hoa, Đại Hạnh pháp sư cất am ở Thới Sơn tu tịnh nghiệm.
Qua hai mươi mốt ngày chuyên tưởng, tâm nhãn pháp sư thông suốt, thấy rõ
đất lưu ly. Đến sau trong lúc đau bịnh, tướng ấy lại hiện, ngài bảo đồ chúng:
"Ta không quán tưởng mà đất báu hiện ra, đây tất là duyên lành sanh An dưỡng
vậy".
Công đức địa quán quả thật không lường!

---o0o---

4. Quán Tưởng Cây Báu (Bảo Thọ Quán)
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: "Môn địa tưởng đã thành, kế tiếp quán cây
báu. Muốn tu phép quán này, phải tưởng rành rẽ bảy lớp hàng cây, mỗi cây cao 
tám ngàn do tuần, đầy đủ hoa lá thất bảo. Mỗi mỗi hoa lá hiển phát những
quang sắc báu lạ. Trong sắc lưu ly chiếu ánh sáng vàng, trong sắc pha lê chiếu
ánh sáng đỏ, trong sắc mã não chiếu ánh sáng xa cừ, trong sắc xa cừ chiếu ánh
sáng lục chân châu. Đại khái các cây, hoa, lá đều bằng san hô, hổ phách, hoặc
tất cả thứ dị bảo, trang nghiêm rực rỡ.
Trên mỗi mỗi cây có bảy lớp lưới diệu chân châu che phủ; giữa mỗi tầng lưới
có năm trăm ức cung điện diệu hoa, nghiêm đẹp như cung Phạm vương. Trong
đó có các thiên đồng, mỗi vị trang nghiêm bằng các chuỗi ngọc gồm năm trăm
ức hạt Thích Ca Tỳ Lăng Già Ma Ni. Ánh sáng của những hạt ngọc này chiếu
xa đến một trăm do tuần, vô cùng rực rỡ như quang minh của trăm ức vầng
nhật nguyệt hòa hợp. Ngoài những hạt ngọc nghiêm sức còn xen lẫn các châu
báu khác, màu sắc đều là bậc thượng.
Cõi Cực Lạc rộng rãi vô biên, mỗi khu vực đều có bảy lớp hàng cây, đây là chỉ
diển tả một phương xứ. Do tuần cũng gọi du thiện na, là khoảng cách giữa hai
dịch đình (trạm) bên Thiên Trúc; theo nhiều nhà chú giải, lấy bốn mươi dặm
làm chuẩn định. Các cây thất bảo, có cây thuần là một thứ báu, có cây do hai,
ba, bốn, cho đến nhiều thứ báu tạo thành. Chẳng hạn như thân cây bằng tử kim,
cành bằng bạch ngân, lá bằng san hô, hoa bằng bạch ngọc, trái bằng chân châu.
Những chất báu, có thứ màu nào chiếu ánh sáng nấy, có thứ lại phóng ra ánh
sáng khác. Đây đều do tịnh tâm vô lậu và công đức vi diệu của Phật A Mi Đà
lưu xuất.
Các bảo thọ, mỗi cây có bảy tầng cao, trên mỗi tầng có lưới châu bao phủ, giữa
mỗi tầng lưới có cung điện diệu hoa, trong cung điện có các thiên đồng, và mỗi
thiên đồng hình mạo nghiêm đẹp, trang sức bằng chuỗi ngọc cùng các thứ dị
thảo, Thích Ca Tỳ Lăng Già, Trung hoa dịch là Năng Thánh; Ma Ni, dịch là Vô
Cấu, hoặc Như ý châu. Có lời khen rằng:
Tịnh tâm, công đức nhiệm mầu sanh,
Bảy lớp hàng cây diệu quả thành,
Ngọc vàng lá lá
Châu báu cành cành
Rực rỡ ma ni sắc diệu thanh.
Từ bi đạo chánh
Xuất thế căn lành
Lưới báu tầng tầng phủ khắp quanh.
Cung điện diệu hoa bày lộng lẫy,
Nghiêm đẹp thiên đồng trình mỗi vẻ,
Ngàn muôn khôn tả nét tinh anh!
Những cây báu ấy hàng hàng đối nhau, lá lá thuận nhau, giữa khoảng các lá
sanh hoa đẹp mầu, trên hoa tự nhiên có trái thất bảo. Mỗi mỗi lá cây rộng hai
mươi lăm do tuần, có ngàn màu sắc, và trăm thứ đường gân hình như chuỗi anh
lạc của chư Thiên. Các hoa chói lộ sắc vàng diêm phù đàn, rực rỡ như những
vòng lửa, uyển chuyển giữa lá. Từ hoa lạ nổi sanh trái quí hình như bình báu
của trời của trời Đế Thích. Và từ trái mầu chiếu ánh sáng rực rỡ hóa thành tràng
phan cùng vô lượng bảo cái. Trong bảo cái ảnh hiện tất cả Phật sự của ba ngàn
thế giới và y chánh mười phương cõi Phật.
Khi thấy bảo thọ rồi, nên theo thứ lớp quán thân cây, cành, lá, hoa, quả, mỗi
mỗi đều cho rõ ràng.
Đây là môn thọ tưởng, thuộc về phép quán thứ tư.
Tất cả cây báu ở cõi Cực Lạc đều do công đức vi diệu của Phật A Mi Đà hóa
hiện, nên khác với cây nơi nõi Ta Bà. Những cây ấy đều cao lớn bằng nhau,
không có cây nào mới sanh hoặc cỗi chết, cũng không có từ thấp nhỏ rồi lần lần
lớn lên. Đoạn trên là thuyết minh sự trang nghiêm sai biệt của cành, lá, hoa,
quả các bảo thọ. Phật sự là những tướng: thị sanh, xuất gia, thành đạo, thuyết
pháp, nhập nê hoàn. Chánh báo chỉ cho người, y báo chỉ cho cảnh. Các bảo thọ,
từ thân cây, cành, lá, hoa, quả, mỗi loại đều do từ một cho đến nhiều thứ báu
hợp thành; cây cao tàng rộng, hoa quả lại nhiều, sự thần biến cũng vô lượng.
Một cây đã vậy thì các cây khắp trong nước cũng thế, duy trừ bồ đề thọ của
Phật. Trong câu kết, vì sợ tâm ý hành giả tạp loạn, nên đức Phật dạy phải tuần
tự quán mỗi chi tiết từ thân cây, lưới báu, cung điện, thiên đồng cho đến trái
mầu hiện ra tràng phan, bảo cái. Khi sức quán tưởng đã thành thục rồi, các cảnh
ấy đồng thời hiện ra trước mắt. Có lời khen rằng:
Trang nghiêm đâu chỉ một,
Mầu nhiệm có muôn ngàn!
Khắp xứ kỳ trân bảo,
Đầy trời vô cấu quang.
Cây hòa lưới báu trùm không điện,
Trái hiện mười phương cõi thế gian.

---o0o---

5 - Quán Ao Nước Bát Công Ðức (Bảo Trì Quán)
Kế lại quán tưởng nước các bảo trì. - cõi Cực Lạc có tám ao nước bát công đức,
mỗi ao do bảy báu hợp thành. Những thứ báu công đức, mỗi ao do bảy báu hợp
thành. Những thứ báu này tánh chất nhu nhuyn, từ như ý châu vương sanh ra. 
Nước ao phân thành mười bốn chi nhánh, mỗi dòng chiếu lộ sắc mầu bảy báu.
Thành ao bằng vàng ròng, đáy ao trải cát kim cương tạp sắc. Mỗi ao nước có
sáu mươi ức hoa sen thất bảo, và mỗi hoa sen tròn rộng mười hai do tuần.
- Cõi Cực Lạc có rất nhiều ao báu, trong đây nói tám ao là chỉ kể một khu phận
và để cho vừa với cảnh của quán trí. Theo lời giải của cổ đức, tám bảo trì có
những lạch thông nhau, chia thành mười bốn dòng nước chảy qua lại các ao. Từ
thành bực, các lót, cho đến nước trong ao đều là bảy báu do Như ý châu vương
sanh ra. Trong đây nói thành ao bằng vàng ròng, đáy ao trải cát kim cương tạp
sắc, cho đến nói bảy báu, cũng là chỉ kể một phương diện. Thật ra các bảo trì
hoặc thuần một chất báu, hoặc do hai, ba, bốn cho đến vô lượng chất báu xen
lẫn tạo thành.
Nước ao đã từ Như ý châu vương sanh, tức là thuộc về như ý thủy. Nước này
có tám công đức: 1. Trong sạch, trơn nhuần, nhiếp về sắc nhập. 2. Thơm tho
không mùi hôi, nhiếp về hương nhập. 3. Nhẹ nhàng. 4. Mát mẻ. 5. Nhu nhuyễn;
ba điều này nhiếp về xúc nhập. 6. Ngon ngọt, nhiếp về vị nhập. 7. Uống vào
điều hòa, thích ý. 8. Uống xong, tăng ích thân căn, tiêu trừ các bệnh; hai điều
nhiếp về pháp nhập.
Nước ma ni trong ao chảy lên xuống theo cọng sen và luồn vào các cánh hoa,
phát ra tiếng nhiệm mầu. Âm thanh này tuyên din những pháp khổ, không, vô
thường, vô ngã, các môn Ba La Mật, hoặc khen ngợi tướng tốt của chư Phật.
Từ như ý châu vương lại tuôn ra ánh sánh vàng mầu nhiệm, hóa thành các sắc
chim bá bảo. Tiếng chim thanh diệu hòa nhã cùng trổi giọng khen ngợi niệm
Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Đây là môn tưởng ao nước bát công đức, thuộc về phép quán thứ năm.
Đoạn nước ma ni chảy lên xuống, theo trong chánh văn có mấy chữ "tầm thọ
thượng hạ". Ngài Nguyên Chiếu giải chữ "thọ" là cọng sen, ý nói nước ma ni
chảy lên cọng sen luồn vào các cánh hoa phát ra tiếng pháp, rồi theo cọng sen
chảy xuống ao. Ngài Thiện Đạo lại giải rộng hơn, là chẳng những nước chảy
lên cọng sen mà còn lên bờ chảy lên xuống theo các cây báu quanh ao, vì đây
thuộc về như ý thủy. Nước báu phát ra diệu âm không những chỉ nói bao nhiêu
pháp, mà còn thuyết minh niệm mê vọng của chúng sanh, tâm bi trí của Bồ tát
hoặc nói pháp nhơn thiên, pháp nhị thừa, pháp đại thừa về hàng địa tiền, địa
thượng, hoặc nói tam thân của Phật; trong chánh văn duy dẫn phần đại lược.
"Các sắc chim bá bảo", ý nói chẳng phải một loài chim mà có nhiều thứ, như
trong tiểu bản nói các hóa cầm: bạch hạc, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng
tần già, và những giống: phù, nhạn, oan ương theo kinh văn sau đây. 
"Phật" là đấng Thầy Vô Thượng phá tà chấp, khuyên hướng thượng của chúng
sanh. "Pháp" là thuốc mầu trừ bịnh độc phiền não, hồi phục pháp thân thanh
tịnh cho loài hữu tình. "Tăng" là ruộng phước của quần sanh, nếu kẻ nào dùng
lòng tín hướng cúng dường sẽ được quả phước nhơn thiên và gieo nhân giải
thoát.
Ma ni châu đã sanh nước bát đức, lại phóng sắc kim quang, hiển rõ chẳng
những có công năng phá trừ tối tăm, mà còn hay thi tác Phật sự.
Có lời khen rằng:
Trang nghiêm sáng sạch trời Thanh Thái
Ao báu mênh mang dường đại hải
Chim hót thanh âm giục tỉnh mơ
Nước diệu trong ngần trôi lững lờ
Ánh sáng thành ao buông rực rỡ
Nhiều sắc hoa sen đua hớn hở.
Bồ tát nhẹ đi tỏa bảo hương
Bảo hương tụ thành mây bảo quang
Bảo quang vân hiện nghìn bảo cái
Bảo cái hư không che bảo tràng
Bảo tràng phi phất vây kim điện
Kim điện lưới châu thần diệu biến
Diệu biến vô cùng bảo ngọc linh
Bảo linh bảo nhạc ngàn trùng chuyển.
Kim điện Phật tuyên pháp diệu thường
Hằng sa thánh chúng lắng tư lương
Hữu duyên mong kẻ đồng tâm nguyện
Xả thọ đồng sanh tịnh pháp đường.

---o0o---


6. Quán Chung Về Ðất Cây, Ao, Lầu Báu (Tổng
Tướng Quán)

Nơi cõi báu Cực Lạc mỗi khu vực có năm trăm ức bảo lâu. Trong những lâu
các ấy có vô lượng chư thiên thường trổi thiên nhạc. Lại có vô lượng nhạc khí
lơ lửng giữa hư không như bảo tràng ở cõi trời, không ai trổi tự nhiên phát
thành tiếng. Những tiếng này đều din nói môn niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tỳ
Khưu Tăng. 
Khi tưởng chung các tướng trên gồm bảo địa, bảo thọ, bảo trì, bảo lâu được
thành rồi, gọi là thấy thế giới Cực lạc về phần thô.
Đây là môn tổng tưởng, thuộc về phép quán thứ sáu.
Nếu thấy tướng này, sẽ trừ được nghiệp ác rất nặng trong vô lượng ức kiếp. Khi
mạng chung, kẻ ấy quyết định được sanh về cõi cực Lạc.
Quán như thế, gọi là chánh quán. Nếu tướng sai khác, là tà quán.
Nếu hành giả duy tưởng đất cây, ao, mà chưa quán lầu các, thì sự thấy cõi Cực
Lạc chưa được tinh, mà cảnh Tịnh độ cũng chưa gọi là trang nghiêm. Thế giới
Cực Lạc rất rộng lớn gồm nhiều khu vực, mỗi khu vực có năm trăm ức bảo lâu.
"Chư thiên thường trổi thiên nhạc" là lược thuật sự trang nghiêm bên trong lầu
các; "nhạc khí lơ lửng giữa hư không" là nói sự trang nghiêm bên ngoài.
Đoạn chánh văn trên, trước tiên đức Phật dạy tưởng riêng về lầu các, sau bảo
quán chung cả đất, cây, ao, lầu báu. Cho nên môn thứ sáu này có hai phương
diện: phần riêng là bảo lâu quán, phần chung là tổng tưởng quán nay chỉ lấy
tổng quán làm điểm chánh.
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: "Hãy để tâm lắng nghe và khéo suy nghĩ!
Ta sẽ vì các ngươi mà giảng thuyết phân biệt pháp trừ khổ não. Các ngươi nên
ghi nhớ rồi giải nói rành rẽ lại cho khắp trong đại chúng nghe".
Khi đức Thế Tôn vừa nói lời ấy xong, thì Phật Vô Lượng Thọ đã hiện thân trụ
lập giữa hư không, hai vị đại sĩ Quán Thế Âm, Đại Thế Chí đứng đầu tả hữu.
Ánh quang minh từ thân của Tây phương tam thánh tỏa ra rực rỡ, nhìn không
thể xiết, dù cho trăm ngàn sắc vàng diêm phù đàn cũng không thể sánh ví được.
Vi Đề Hy phu nhơn được thấy Vô Lượng Thọ Như Lai, liền cúi đầu đảnh l Phật
và thưa rằng: "Bạch đức Thế Tôn! nay con nhờ từ lực được thấy Phật A Mi Đà
và hai vị Bồ Tát. Chúng sinh đời sau phải làm thế nào để quán tưởng Tây
phương tam thánh?"
Đức Thế Tôn vì thương xót chúng sanh bị lửa tam độc thiêu đốt, mãi trôi nổi
trong biển luân hồi, nên mới bảo ngài A Nan và Vi Đề Hy phu nhơn thọ trì
quán pháp sau đây rồi tuyên thuyết lại cho đại chúng cùng nghe. Bởi đấng Hóa
Chủ cõi Ta Bà vì lợi sanh mà trụ tưởng nơi tây phương, nên bậc Từ tôn miền
An Lạc cảm thông mới hiện thân ở trời đông độ. Đây là đạo giáo hóa của hai
bậc chí thánh tương ưng để mở đầu cho sự khai giảng pháp Quán Phật tam 
muội. Và cũng bởi thánh chúng trong pháp hội, phần nhiều căn cơ còn kém nên
Tây phương tam thánh mới giúp duyên bằng cách trình tượng giữa hư không.
Hỏi: Đức của Phật A Mi Đà rất tôn cao, ngài đã vì bản nguyện mà đến Ta Bà,
sao không thị hiện ngồi đoan chính trên hoa sen, lại hiện thân đứng?
Đáp: Đó là vì chúng sanh ở cõi này bị nhiều sự khổn ác vây quanh, kiếp sống
lại vô thường ngắn ngủi, cần được mau vớt khỏi dòng mê, nên đức Vô Lượng
Thọ Như Lai mới hiện tướng đại bi cấp cứu.
Hỏi: Y chánh cõi Tây phương quá nhiệm mầu, mà chúng sanh miền ngũ trược
loạn tưởng phân vân, màn vô minh dày đặc, làm sao tác quán được tường tất?
Đáp: Nếu duy cứ theo vọng nghiệp của chúng sanh thì chỉ luống công mệt sức.
Như hành giả biết chí tâm nương cầu sức Phật gia bị, tất tùy theo chỗ quán đều
sẽ được thấy. Muốn như thế, hành giả nên trang nghiêm đạo tràng, quì trước
tượng Phật hết lòng hổ thẹn, bi thương rơi lệ, sám hối tội chướng của mình.
Lúc ấy nên khải thỉnh đức Thích Ca Mâu Ni và mười phương hằng sa chư Phật,
lại niệm bản nguyện của Mi Đà Thế Tôn, tâm nghĩ miệng nói: "Đệ tử pháp
danh.... là kẻ phàm phu, tội chướng sâu nặng. Nguyện Phật xót thương hộ niệm,
khiến cho con được khai ngộ và thành tựu cảnh sở quán. Nay con nguyện xả
thân mạng, nương về đức A Mi Đà Thế Tôn, như được thấy cùng không đều
nhờ ân lực của Phật". Kế đó tiếp tục chí tâm l sám, rồi dẹp hết muôn duyên y
theo phương pháp bền chí một lòng tu tập. Hành trì như thế lâu ngày tự sẽ được
thấy, bằng chẳng vậy dù tiêu hao nhiều năm tháng, quán hạnh cũng khó thành.
Khi quán cảnh hiện ra có hai thứ: 1. Do tưởng mà thấy, vì còn có tri giác, nên
tuy cảnh hiện sự thấy chưa được rõ ràng. 2. Do định mà thấy, bởi tri giác trong
ngoài đã diệt, nên tịnh cảnh hiện ra nhiệm mầu không thể so sánh nghĩ bàn
được.

---o0o---

7- Quán Tưởng Tòa Sen (Hoa Tòa Quán)

Đức Phật bảo Vi Đề Hy: Muốn quán đức Phật kia, trước tiên phải khởi tưởng
trên đất thất bảo có hoa sen. Mỗi cánh sen này ửng sắc bá bảo, có tám muôn
bốn ngàn đường gân dường như bức vẽ thiên nhiên. Mỗi đường gân có tám
muôn bốn ngàn tia sáng, chiếu suốt rõ ràng. Các chi tiết trên đây, phải quán
thấy cho rành rẽ.
Toàn hoa sen có đủ tám muôn bốn ngàn cánh, cánh nhỏ nhứt cũng rộng hai
trăm năm mươi do tuần. Trong mỗi cánh có trăm ức hạt Ma Ni Châu Vương 
trang nghiêm sáng chói. Mỗi hạt châu ma ni phóng ra ngàn sắc quang minh như
lọng thất bảo che khắp trên mặt đất.
Muốn tưởng đức Phật, trước phải quán tòa sen của ngài thường ngự, ví như bề
tôi cung kính chiêm bái vua, trước tiên từ dưới thềm nhìn lên. Đường gân như
bức vẽ thiên nhiên, là chỉ cho sự khéo đẹp. Hoa sen có tám muôn bốn ngàn
cánh, tiêu biểu cho đức Vô Lượng Thọ Như Lai đã trừ diệt 84.000 trần lao,
thành tựu 84.000 diệu hạnh. Cánh sen nhỏ nhứt rộng 250 do tuần, hiển thị tòa
sen này to lớn vô cùng, tất nhiên thân tướng của Phật cũng cao lớn vô tỷ. Mỗi
cánh sen trang nghiêm bằng trăm ức hạt ma ni châu vương, mỗi hạt châu phóng
lên hư không ngàn tia sáng tụ lại hình như tàng lọng thất bảo che khắp trên mặt
đất; một hạt châu đã thế, trăm ức hạt châu cũng như vậy, mỗi cánh sen đã thế,
84.000 cánh cũng như vậy, chỉ rõ sự trang nghiêm kỳ lạ của hoa tòa thật vô
cùng!
Đài sen được tạo thành bằng chất báu chính là Thích Ca Tỳ Lăng Già. Ngoài
ra, còn có tám vạn ngọc báu kim cương, chân thúc ca, phạm ma ni và lưới diệu
chân châu trang sức. Trên đài sen tự nhiên có bốn trụ Bảo Tràng; mỗi trụ cao
lớn như trăm ngàn muôn ức núi Tu Di. Trên Bảo Trụ có mành báu và năm trăm
ức vi diệu bảo châu che phủ, hình như cung trời Dạ Ma trang nghiêm rực rỡ.
Mỗi hạt bảo châu có tám muôn bốn ngàn ánh sáng, mỗi ánh sáng phát ra tám
muôn bốn ngàn kim sắc khác lạ soi khắp cõi báu, tùy mỗi nơi hiện mỗi mỗi
tướng kim sắc khác nhau. Các tướng ấy như đài kim cương, hoặc lưới chơn
châu hay mây tạp hoa... ở khắp mười phương, tùy ý biến hiện làm những Phật
sự.
Đây là môn hoa tòa tưởng, thuộc về phép quán thứ bảy.
Châu thúc ca, Trung Hoa dịch là xích sắc bảo, một loại báu sắc đỏ. Phạm ma ni
là thứ ngọc như ý trong ngần sáng sạch vô cùng. Dạ Ma Trung Hoa dịch: Thời
Phận, thuộc về cõi trời Không cư, ở tầng thứ ba của Dục giới. Cõi trời này hoa
quang cực trang nghiêm sáng suốt, nên trong kinh đem ra để thí dụ. Nói "tùy
ý", chỉ rõ còn nhiều biến tướng khác lạ nữa.
Đại khái đoạn kinh này din tả trên đài sen (tức gương sen) có bốn trụ bảo tàng
trên trụ có mành báu và diệu châu, các châu báu phóng vô lượng quang sắc
khác nhau soi khắp mười phương, tùy ý hiện ra vô số tướng lạ để làm những
Phật sự.
Đức Thế Tôn bảo A Nan: Hoa sen mầu nhiệm ấy do nguyên lực của Tỳ Khưu
Pháp Tạng thành tựu. Muốn quán đức Phật Kia, trước phải tưởng hoa tòa này.
Khi tu môn tưởng đây, không được quán tạp, phải quán từ đài sen đến mỗi mỗi 
cánh, hạt châu, ánh sáng, trụ bảo tràng, đều cho rõ ràng, như người soi gương
tự thấy mặt mình. Phép tưởng này nếu thành, sẽ diệt trừ tội chướng trong năm
muôn ức kiếp sanh tử, quyết định được sanh về thế giới Cực Lạc.
Quán như thế, gọi là chánh quán. Nếu tưởng sai khác, là tà quán.
Đức Phật A Mi Đà trong nhiều kiếp lâu xa về trước, tiền thân là một vị quốc
vương, được gặp Thế Tự Tại Vương Như Lai, bỏ nước xuất gia, hiệu là Pháp
Tạng. Vị Tỳ kheo này phát bốn mươi tám điều đại nguyện để tạo thành cõi
Tịnh độ. Thế thì quả tướng trang nghiêm ở Cực Lạc đều do nguyện lực mà
thành, đâu phải chỉ riêng tòa sen? Chẳng qua điểm này được nêu lên, chính để
hiển thị miền An Dưỡng tức là nguyện thể của Phật, và nguyện do tâm mà phát
nên cũng là tâm thể của Phật, và nguyện do tâm mà phát nên cũng là tâm thể
của Như Lai. Thế thì biết nguyện lực không thể nghĩ bàn vậy. Có lời khen rằng:
Sen mầu lạ,
Muôn cánh chói kỳ trân.
Đài ánh bảo tràng trùm lưới báu.
Quang thi Phật sự biến hoa thần.
Nghìn xứ nổi hương vân!

---o0o---

8- Quán Tưởng Phật và Bồ Tát (Tưởng Quán)

Này A Nan, Vi Đề Hy! Khi thấy tướng hoa tòa rồi, kế tiếp nên quán hình tượng
Phật. Việc ấy như thế nào? Chư Phật Như Lai là thân pháp giới vào trong tất cả
tâm tưởng của chúng sanh. Cho nên khi tâm các ngươi tưởng Phật, tâm ấy
chính là ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp tùy hình; tâm ấy làm Phật, tâm ấy
là Phật. Biển chánh biến tri của Phật từ nơi tâm tưởng mà sanh. Vì thế các
ngươi nên một lòng hệ niệm quán kỹ đức Đa Đà A Dà Độ, A La Ha Tam Miệu
Tam Phật Đà kia.
Chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay, phần nhiều chưa thấy chân thân của
Phật, chỉ thấy hình tượng, nên trước tiên đức Thế Tôn dạy về môn tượng quán.
Câu "việc ấy như thế nào" có những ý nghĩa; Việc quán Phật như thế nào? Tại
sao phải tu môn Phật tưởng? Đoạn trước bà Vi Đề Hy chỉ hỏi đức A Mi Đà,
nay Như Lai lại nói chúng chư Phật là muốn hiển thị chư Phật đồng một pháp
thân. Danh từ "pháp giới" đây, hàm ba ý nghĩa: tâm cùng khắp, thân cùng khắp,
và không chướng ngại. Pháp thân vẫn tự tại khắp nơi nên khi chúng sanh dùng
tịnh tâm tưởng Phật, thì Phật thân tùy ứng. Trạng thái này như gương trăng tròn 
sáng trên nền trời cao, vẫn không có ý tư riêng, nếu nước lặng trong thì muôn
dòng đều hiện bóng. "Tâm ấy" chỉ cho tâm quán Phật của hành giả, vì do quán
tưởng Phật nên tướng hiện trong tâm, tức nơi tâm đủ tướng hảo của Phật.
Chúng sanh y theo lời dạy, tâm này, nên gọi "tâm này làm Phật". Vì e hành giả
tưởng lầm môn Phật quán khi thành do từ bên ngoài mà được, nên lại nói "tâm
ấy là Phật". Trí huệ của Như Lai đầy khắp pháp giới bao la, sáng suốt không
chướng ngại, biết các Pháp một cách chính xác gọi là "biến chánh biến tri".
Đức của Phật vô biên, nay chỉ lược cử một chánh biến tri để nhiếp tất cả các
thứ khác. Và vì muôn đức của Như Lai sở dĩ được thành tựu, khởi thỉ đều do sự
phát tâm tu hành, nên gọi "từ nơi tâm tưởng mà sanh".
Buộc tâm chuyên chú một cảnh gọi là hệ niệm. Đa đà a dà độ, Trung Hoa dịch
là Như Lai, A la Ha là Ứng cúng, Tam miệu tam Phật đà là Chánh biến tri. Đây
là lược cử 3 đức hiệu trong mười hiệu của Phật.
Muốn quán Phật Vô Lượng Thọ trước phải tưởng hình tượng làm sao cho khi
nhắm mắt mở mắt đều thấy một bảo tượng như sắc vàng diêm phù đàn, ngồi
trên tòa sen kia. Lúc thấy Phật tượng rồi tâm nhãn tự được mở mang rõ ràng
sáng suốt. Bấy giờ hành giả thấy cõi Cực Lạc bảy báu trang nghiêm, như: Bảo
địa, bảo trì, hàng bảo thọ, trên cây có mành báu chư thiên che phủ, các lưới báu
giăng khắp giữa hư không.
Khi thấy cảnh tướng rất rõ ràng như nhìn vào bàn tay rồi lại tưởng hai hoa sen
lớn, một ở bên tả, một ở bên hữu của Phật, cả hai đều giống như tòa sen trước.
Xong lại tưởng hình tượng Quán Thế Âm Bồ Tát ngồi tòa sen bên trái, tượng
Đại Thế Chí Bồ Tát ngồi tòa sen bên mặt, thân tướng đều rực rỡ như sắc vàng
diêm phù đàn.
Tướng hảo của Tây phương tam thánh rất nhiệm mầu, hàng phàm phu thô tâm
không thể thấy hết được, nên phải mượn hình tượng tiêu biểu cho chơn thân,
dùng phương tiện từ d đi vào khó. Câu "ngồi trên tòa sen" tức chỉ cho hoa đã
din tả ở đoạn trước. Câu "bấy giờ hành giả..." đến "giữa hư không", ý bảo dù đã
thấy tượng Phật, cũng nên chú tâm đến y báo ở Tây phương, đừng cho quên
mất. Theo ngài Nguyên Chiếu, tòa sen của hai vị Bồ tát tuy giống như hoa tòa
của Phật, nhưng cứ nơi thân lượng, phải hơi nhỏ hơn; kinh văn trên đây chỉ nói
đại lược song học giả phải hiểu phần thâm ý.
Phép quán này thành rồi, lại tưởng thân tướng của Phật và Bồ Tát đều phóng
ánh sáng vàng, chiếu các cây báu. Nơi mỗi gốc cây đều có tượng Phật và hai vị
Bồ tát ngồi trên tòa sen, như thế cho khắp cả bảo độ. 
Quán như thế xong, hành giả lại tưởng tiếng nước chảy, ánh sáng, các cây báu,
những loài chim: phù, nhạn, oan ương nói pháp mầu, cho đến khi xuất định,
nhập định hằng được nghe thấy. Pháp mầu nầy dù cho khi xuất định, hành giả
phải ghi nhớ đừng quên, và cần phải hợp với Tu đa la. Nếu pháp không hợp với
khế kinh, gọi là vọng tưởng; như hợp, gọi là tưởng thấy thế giới Cực Lạc về
phần thô.
Đây là môn tưởng thứ tám. Phép quán này tu thành, trừ diệt tội trong vô lượng
ức kiếp sanh tử, ngay hiện đời hành giả tất chứng được Niệm Phật tam muội.
Tưởng mỗi gốc cây đều có tượng Phật, Bồ tát, gọi là Đa thân quán, tiêu biểu
cho sự thần thông ứng hiện của Tam Thánh ở Tây Phương. Tu đa la, Trung
Hoa dịch là khế kinh. Môn tượng quán nếu thành, tất sẽ thấy chơn thân, nên nói
"hiện đời chứng được Niệm Phật tam muội".

---o0o---

III - Phần Lưu Thông

Khi ấy Tôn giả A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, l Phật và thưa rằng:
- Bạch đức Thế Tôn! Kinh này tên gọi là chi? Chúng con phải thọ trì pháp yếu
này như thế nào?
Đức Phật bảo: "Kinh này tên Quán Cực Lạc Quốc Độ Vô Lượng Thọ Phật,
Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát", cũng gọi là "Tịnh Trừ Nghiệp
Chướng, Sanh Chư Phật Tiền." Ông nên như thế mà thọ trì, chớ để quên mất.
Người tu môn tam muội này, hiện đời sẽ được thấy Phật Vô Lượng Thọ và hai
vị đại sĩ. Nếu thiện nam thiện nữ nào chỉ nghe danh hiệu của đức Phật và hai vị
đại sĩ kia, còn trừ được tội trong vô lượng kiếp sanh tử, huống chi là tưởng
niệm! Như có người nào niệm Phật, nên biết kẻ ấy chính là hoa phân đà lợi
trong loài người. Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí sẽ là thắng hữu của
người ấy. Kẻ ấy sẽ ngồi nơi đạo tràng, sanh vào nhà chư Phật. Này A Nan! Ông
nên ghi nhớ lời này, thọ trì lời này chính là thọ trì danh hiệu Phật Vô Lượng
Thọ."
Khi Phật nói lời ấy xong, hai tôn giả Mục Kiền Liên, A Nan, Vi Đề Hy phu
nhơn cùng quyến thuộc, thảy đều hoan hỷ.
Bấy giờ đức Thế Tôn bước trên hư không, trở lại núi Kỳ Xà Quật. Khi về đến
nơi, Tôn giả A Nan lại vì đại chúng trùng tuyên việc ấy. Vô lượng chư thiên, 
long, dạ xoa nghe lời của Phật nói, đều rất vui mừng, đảnh l đức Thế Tôn rồi
lui bước trở về.
Thọ trì là thế nào? Theo Luận Trí Độ: "Sức tin tưởng gọi là thọ, sức ghi nhớ
gọi là trì." Kinh có hai danh đề, danh đề trước "Quán Cực Lạc Quốc Độ Vô
Lượng Thọ Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát", gọi tắt "Quán Vô
Lượng Thọ", là muốn nói chánh báo để kiêm y báo, thuật hóa chủ để gồm đồ
chúng. Danh đề sau "Tịnh Trừ Nghiệp Chướng, Sanh Chư Phật Tiền" ý nói sự
diệt tội được vãng sanh là lực dụng của kinh. Phân đà lợi tức là hoa sen trắng.
Câu "Thọ trì lời này chính là thọ trì danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ" là đức Thế
Tôn vì lòng đại bi, mật ý đem môn trì danh niệm Phật mà phú chúc cho người
đời sau.
Kinh này có hai điểm lưu thông, là nơi vương cung và núi Kỳ Xà Quật. Ngài A
Nan trùng tuyên lại lời đức Phật, nên gọi "nghe lời của Phật nói."
Thiện Đạo đại sư khi xưa, lúc sắp sớ giải kinh này, đã quì trước bàn Phật cầu
xin gia bị, rồi tụng luôn ba biến kinh Mi Đà, niệm Phật ba muôn câu. Đêm ấy,
ngài mộng thấy cảnh giới Cực Lạc trang nghiêm, Phật, Bồ Tát và Thánh chúng
hoặc ngồi, hoặc đứng, hoặc thuyết pháp, hoặc đi kinh hành. Từ đó về sau, mỗi
đêm trong giấc chiêm bao, đều có một vị Tăng đến chỉ bảo về huyền nghĩa kinh
Quán Vô Lượng Thọ. Sau khi bản thảo đã viết xong, trong bảy hôm, mỗi ngày
đêm đại sư tụng kinh Mi Đà mười biến, niệm Phật ba muôn câu, sám hối quy
mạng, cầu xin chứng minh. Đêm đầu thấy có ba cỗ xe tự chạy đi trên đường,
bỗng có một người cỡi lạc đà trắng đến khuyên rằng: "Sư nên tinh tấn, đừng
thối chuyển, cõi này nhơ ác khổ não, chớ nên tham đắm sự vui điên đảo vô
thường." Đêm thứ hai, ngài thấy Phật A Mi Đà thân sắc chân kim ngồi trên hoa
sen nơi gốc cây báu, xung quanh có mười vị tăng cũng đều ngồi dưới bảo thọ.
Trên cây báu chỗ Phật ngồi, có thiên y treo vây phất phơ rất đẹp. Sang đem thứ
ba, đại sư lại thấy hai cây trụ tuyệt cao, có treo tràng phan năm sắc, đường báu
rộng rãi thênh thang. Những tướng như thế rất nhiều, đây chỉ là lược thuật.
Thế thì biết: Cõi báu chẳng không, kinh điển lưu truyền vẫn tại. Lòng thành có
cảm, thoại trưng ghi chép còn đây. Chỉ thương người chấy lý trệ không, cho là
lời thí dụ. Lại tiếc kẻ theo tình quên tánh, uổng mất phước vãng sanh. Nhưng
thôi, non cao nước chảy cũng đành chờ khách tri âm; đá cứng ngọc lành, âu hãy
đợi người minh thức. Cõi mầu hằng tịnh, ai kẻ hữu duyên.
CHUNG

---o0o---

HẾT
.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét